Lo lắng chất lượng cá giống

Theo Tổng cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và PTNT), hiện nay các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) có khoảng 230 cơ sở sản xuất giống cá tra và trên 4.000 hộ ương dưỡng cá giống với diện tích trên 2.250 ha. Hàng năm, các cơ sở sản xuất, ương dưỡng cá giống này cung cấp khoảng 2 tỷ con cá tra giống, đáp ứng đủ nhu cầu con giống của nông dân nuôi cá tra thịt. Sản lượng cá tra giống tập trung nhiều nhất ở các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ và Tiền Giang. Mặc dù, đáp ứng đủ về số lượng nhưng chất lượng cá tra giống chưa đáp ứng được yêu cầu.

Nguyên nhân là do thời gian qua giá cá tra giống thấp và bấp bênh nên chưa khuyến khích được các cơ sở sản xuất và ương giống tập trung sản xuất với quy mô lớn mà mới chỉ dừng lại ở việc sản xuất ở quy mô nhỏ, không tập trung nên rất khó cho việc quản lý chất lượng cá tra giống tại các địa phương. Việc sản xuất và cung ứng giống cá tra tại các tỉnh ĐBSCL phần lớn do người dân tự phát, tự cân đối nên phát triển chưa đồng bộ giữa số lượng cũng như chất lượng. Chất lượng con giống có chiều hướng suy giảm trong những năm gần đây với những biểu hiện như tỷ lệ dị hình cao, chậm lớn, dễ nhiễm bệnh và tỷ lệ sống thấp.

Bên cạnh đó, giá cá bột không có sự khác biệt giữa cá có cải thiện di truyền và cá tại địa phương. Từ đó ảnh hưởng đến tâm lý các cơ sở chưa mạnh dạn đầu tư theo đúng quy trình đối với đàn cá cải thiện di truyền. Do chạy theo lợi nhuận nên hầu hết các cơ sở chưa quan tâm cũng như tuân thủ quy trình sản xuất giống như: chế độ nuôi vỗ, cho sinh sản nhiều lần trong năm, lạm dụng kích dục tố khi sinh sản, cá bố mẹ không được tuyển chọn kỹ, kích thước cá bố mẹ tham gia sinh sản không đạt yêu cầu… Việc cạnh tranh của thị trường cá tra bột, cá tra giống trong thời gian qua còn nhiều bất cập, chủ yếu cạnh tranh về giá bán mà không chú trọng về chất lượng.

Ông Nguyễn Văn Sáng, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản II (Viện II) cho biết, một trong những vướng mắc trong hoạt động sản xuất giống cá tra hiện nay là cá bố mẹ hậu bị có nguồn gốc không rõ ràng, không được tuyển chọn và kích thước nhỏ. Đa số cá bố mẹ được tuyển chọn từ ao nuôi cá thịt chiếm tới hơn 57%, còn lại bắt từ tự nhiên và số rất ít từ con giống đã qua chọn lọc. Trong khi đó, kỹ thuật nuôi vỗ thành thục cá bố mẹ chưa đạt, còn tình trạng đẻ ép, khai thác quá mức bằng cách cho cá tra bố mẹ đẻ nhiều lần trong năm, nhất là khi giá cá tra giống nằm ở mức cao.

Về thực tế sản xuất, ông Lê Văn Minh, nông dân ương cá tra giống ở xã Thạnh Lộc, huyện Cai Lậy (Tiền Giang) cho biết, điều khiến người ương cá tra giống lo lắng nhất hiện nay là dịch bệnh ngày càng cao, tỷ lệ sống trong quá trình ương giảm thấp, chủ yếu do chất lượng con bột ngày càng giảm, môi trường ngày càng xấu đi. Nhìn chung, tỷ lệ sống trong quá trình ương cá tra giống (cá đạt cỡ 30-50 con/kg) dao động khoảng 10-15%, thậm chí nhiều hộ có tỷ lệ sống trong quá trình ương cá chỉ đạt 3-7% mặc dù đã có kinh nghiệm nhiều năm.

Công nghệ nuôi chưa hoàn chỉnh

Đối với hoạt động nuôi cá tra thịt thâm canh, ngày nào cũng phải vớt vài chục con  cá chết là vô cùng bình thường. Tuy nhiên, những năm gần đây, nông dân đào ao sâu hơn, thả nuôi với mật độ cao hơn, trong khi chất lượng con giống giảm, công nghệ nuôi vẫn dậm chân tại chỗ khiến dịch bệnh và hao hụt ngày càng cao, kéo theo phải sử dụng nhiều loại thuốc kháng sinh, từ đó làm tăng chi phí sản xuất và nguy cơ mất an toàn thực phẩm.

Ông Trần Quang Nghĩa, xã Hòa Hưng, huyện Cái Bè (Tiền Giang) chỉ tay ra ao cá tra hơn 4.000m2 sau nhà cho biết, từ khi thả giống đến nay đã được 5 tháng nhưng ao cá tra này chưa có ngày nào là không có cá chết. Thông thường công nhân phải vớt cá chết vào mỗi buổi sáng để hạn chế ô nhiễm môi trường, dịch bệnh. “Do công nhân đã vớt cá chết từ sáng nên giờ không thấy cá chết trong ao chứ sáng sớm là thấy cá chết trắng cả góc ao. Ao cá tra này đến nay hao hụt khoảng 50% rồi nhưng chưa có dấu hiệu dừng lại. Những năm gần đây, tỷ lệ cá chết trong quá trình nuôi ngày càng cao mặc dù có sự hỗ trợ của kỹ sư thủy sản địa phương hay từ các công ty thuốc nhưng cá chỉ tạm ngừng sau vài ngày dùng thuốc đặc trị rồi tiếp tục chết”.

Ông Nguyễn Văn Đời, nông dân nuôi cá tra ở xã Tân Phong, huyện Cai Lậy (Tiền Giang) cho biết, mấy năm trước chi phí thuốc thú y trong nuôi cá tra thịt khoảng 600 đồng/kg nhưng bây giờ lên tới hơn 1.000 đồng/kg. Vừa rồi nghe thông tin có mấy kỹ sư của một công ty thuốc “bao” phần thuốc thú y cả vụ nuôi cá tra chỉ 600 đồng/kg nên chúng tôi cũng đang phấn khởi dù chưa biết kết quả thế nào. Ông Dương Thanh My, nuôi cá tra ở cùng xã cũng cho biết, giá thành nuôi cá tra của ông chỉ 20.000-21.000 đồng/kg nên những đợt giá cá tra thịt chỉ 22.000-23.000 đồng/kg thì ao nuôi cá tra của ông vẫn có lãi. Tuy nhiên, nhiều hộ nuôi cá do không nắm kỹ thuật, thiếu kinh nghiệm, có giá thành nuôi cá lên tới 23.000-24.000 đồng/kg nên coi như lỗ nặng.

Nhiều hộ nuôi cá tra ở cù lao Tân Phong, huyện Cai Lậy (Tiền Giang) cũng cho biết, tỷ lệ chết cá tra nuôi thâm canh ở địa phương này phổ biến ở mức trên 50%, thậm chí có hộ bắt cá giống không tốt, thả giống lúc thời tiết bất lợi nên tỷ lệ cá chết lên đến 60-70%. Hiện nay, nhiều bệnh gây hại nặng nề trên cá tra nhưng việc tìm ra tác nhân, phương pháp phòng trị hiệu quả vẫn là bài toán khó giải đối với các nhà khoa học khiến chi phí sản xuất trong quá trình nuôi cho con giống, thuốc thú y ngay càng cao, hiệu quả sử dụng thức ăn giảm. Điều này cho thấy mặc dù nghề nuôi cá tra đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng quy trình, công nghệ nuôi cá tra ở ĐBSCL đang có nhiều bất cập về mặt khoa học.

Ông Phan Hữu Hội, Phó Chủ tịch Hội Nghề cá Tiền Giang cho biết, hiện nay còn không ít hộ nuôi cá tra thâm canh còn thói quen mua cá tra giống giả rẻ, không rõ nguồn gốc, không được kiểm tra chất lượng kỹ. Nhiều hộ nuôi thả giống với mật độ cao đến 100 con/m2 với suy nghĩ thả cá nhiều để cá chết tới thu hoạch là vừa. Điều này làm cho ao nuôi cá tra khó quản lý, môi trường ao nuôi bị ô nhiễm, dịch bệnh tăng, dẫn đến giá thành sản xuất cao. Hơn nữa, hầu như các hộ nuôi cá tra không bố trí ao lắng, ao xử lý nước thải mà xổ xả nước trực tiếp vào nguồn nước mặt trên sông làm cho mầm bệnh luôn có sẵn trong nguồn nước và sẵn sàng đi vào ao nuôi.

 

Nâng cao chất lượng giống và ứng dụng công nghệ nuôi mới là bước đi đầu tiên trong tái cấu trúc ngành hàng cá tra (ảnh chụp tại xã Phú Phong, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang)

Bước đi đầu tiên trong tái cấu trúc ngành hàng cá tra

Chất lượng cá tra giống giảm, công nghệ nuôi lạc hậu dẫn đến kết quả cuối cùng là giá thành nuôi cao, hiệu quả nuôi thấp, từ đó làm ảnh hưởng xấu đến cả chuỗi sản xuất và tính bền vững của ngành hàng cá tra. Do đó, tại Hội thảo “Tái cấu trúc ngành hàng cá tra gắn với tái cấu trúc ngành Nông nghiệp ĐBSCL” được tổ chức tại tỉnh Đồng Tháp vừa qua, bà Trương Thị Lệ Khanh, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Vĩnh Hoàn - doanh nghiệp lớn nhất trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu cá tra cho rằng, nâng cao chất lượng giống và ứng dụng công nghệ nuôi mới là bước đi đầu tiên trong tái cấu trúc ngành hàng cá tra.

Theo bà Khanh, triển khai dự án nâng cao chất lượng cá tra bố mẹ qua chọn lọc di truyền của Bộ Nông nghiệp và PTNT vô cùng cần thiết. Tuy nhiên, việc nâng cao chất lượng giống cá tra cần tiến hành dài hạn chứ không nên thực hiện ngắn hạn như hiện nay. Đối với khâu ương giống, thực tế con giống hiện nay thu gom từ rất nhiều hộ, nhiều cơ sở nên khó kiểm soát được chất lượng, nguồn gốc. Hiện nay, chưa có quy hoạch, sản xuất ương giống cá tra nên các tỉnh cần dành ra một phần đất, đầu tư cơ sở hạ tầng, có chính sách miễn tiền thuê đất, ưu đãi thuế để khuyến khích nông dân có tay nghề có thể thuê đất để ương cá tra giống. Trên cơ sở này, doanh nghiệp có thể yên tâm đặt hàng con giống có chất lượng, không sử dụng kháng sinh với mặt bằng giá cả đảm bảo người ương giống có lãi để họ tận tâm làm ra con giống tốt theo yêu cầu của doanh nghiệp. Đây cũng là cơ sở để các doanh nghiệp có thông tin, hình ảnh đầy đủ về khâu giống để làm tiếp thị về con giống… Ngoài ra, Nhà nước cũng còn nợ tiêu chuẩn nuôi đối với con giống.

Đối với khâu nuôi, Bộ Nông nghiệp và PTNT đồng ý với doanh nghiệp là có thể nâng mật độ thả giống lên trên 40 con/m2 bằng cách ứng dụng công nghệ nuôi mới để nâng cao sản lượng, hiệu quả nuôi. Đồng thời cần cải thiện chất lượng thức ăn cá, kỹ thuật chăm sóc… để hệ số thức ăn (FCR) nuôi cá tra giảm 0,2 (giảm 0,2 kg thức ăn để tạo ra 01 kg cá), bởi chỉ cần FCR giảm được 0,2 thì đã tiết kiệm được cho đất nước 100 triệu USD. Chẳng hạn, như cá hồi Na-uy, trước FCR cá hồi 3,5 nhưng do thay đổi thức ăn, cách chăm sóc nên hệ số thức ăn hiện nay chỉ còn 1,4; do đó FCR cá tra hoàn toàn thể hạ được 0,2.

Phân tích cụ thể hơn về công nghệ nuôi, theo PGS.TS Đỗ Thị Thanh Hương - Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, hiện nay những ao nuôi cá tra thâm canh có độ sâu từ 4-4,5 m, mật độ nuôi lên đến gần 100 con/m2 nhưng chỉ sử dụng phương pháp thay nước một phần theo sự biến động thủy triều trong ngày. Tuy nhiên, cá tra sống và hoạt động chủ yếu ở tầng mặt (0,5m) nên trình trạng thiếu oxy ở những lúc cao điểm (22h-9h) hay ở những tầng nước sâu hơn là điều không thể tránh khỏi. Khi hàm lượng oxy hòa tan thấp, cá buộc phải bơi lên tầng mặt để lấy oxy từ không khí nên bị mất năng lượng, làm giảm tốc độ tăng trưởng. Để khắc phục hạn chế này, người nuôi cá cần sử dụng phương pháp sục khí để tăng hàm lượng oxy trong nước, giảm bớt khí độc, giảm tiêu tốn năng lượng, giảm stress, cải thiện tốc độ sinh trưởng, tăng mật độ nuôi, sản lượng và nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn của cá. 

Để nâng cao chất lượng đàn cá tra, trong 2 năm (2010-2011), Tổng cục Thủy sản giao cho Viện II cung cấp đàn cá tra chọn giống cho các tỉnh ĐBSCL là 105.423 con, trong đó cá tra bố mẹ thuộc dự án “Chuyển giao công nghệ sản xuất giống cá tra có chất lượng di truyền cao về tính trạng tăng trưởng” cho các tỉnh ĐBSCL là 101.000 con. Sau thời gian nuôi giữ, các địa phương đã triển khai kiểm tra số lượng đàn cá tra còn lại 82.131 con. Đàn cá tra bố mẹ chọn giống giao cho địa phương có tốc độ phát triển nhanh hơn so với bình thường, hiện nay đều có khả năng cho tham gia sinh sản, trong đó đã có một số cơ sở đã sử dụng đàn cá chọn giống sinh sản. Cá phát dục tốt, kích thướt trứng lớn, tỷ lệ thụ tinh đạt 80%, tỷ lệ trứng chiếm 8% trọng lượng thân, tỷ lệ nở 1,1 triệu con/kg trứng.

 

Thành Công