Diễn đàn có sự tham dự của 250 đại biểu gồm các nhà quản lý, nhà khoa học, cán bộ khuyến nông và nông dân 7 tỉnh vùng Trung du miền núi phía Bắc (Lào Cai, Tuyên Quang, Phú Thọ, Hòa Bình, Hà Giang, Lai Châu và Yên Bái) cùng một số doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Ông Trần Văn Khởi - Q. Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, ông Nguyễn Văn Dũng - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu rau quả, ông Trần Đức Lâm, PGĐ Sở Nông nghiệp và PTNT Yên Bái đồng chủ trì Diễn đàn.

Ban chủ tọa, Ban cố vấn Diễn đàn

Theo thống kê của Cục Trồng trọt, cam, bưởi, quýt nằm trong top 15 loại cây trồng có diện tích lớn nhất (trên 10 nghìn ha) và cho sản lượng lớn nhất (trên 100 nghìn tấn/năm). Đối với vùng trung du, miền núi phía Bắc, diện tích cam, quýt, bưởi có khoảng 43,5 nghìn ha, chiếm 23,5% diện tích cây ăn quả toàn vùng (184,4 nghìn ha), chiếm 60% diện tích cam, quýt, bưởi phía Bắc (72,6 nghìn ha) và bằng 27,6 diện tích cam quýt, bưởi cả nước (157,4 nghìn ha).

Phát biểu tại diễn đàn, đồng chí Nguyễn Văn Khánh – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Yên Bái cho biết, những năm gần đây, tỉnh Yên Bái đã có những cơ chế, chính sách hỗ trợ nhân dân phát triển cây ăn quả cùng với ứng dụng tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, trong đó cây ăn quả có múi là nhóm cây trồng chủ lực, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đến năm 2017, diện tích cây ăn quả có múi của tỉnh Yên Bái là 2.846,41 ha, với sản lượng gần 7.000 tấn, tập trung chủ yếu ở các huyện Văn Chấn (1.307,56 ha); Trấn Yên (333,94 ha); Lục Yên (464,70 ha); Yên Bình (653,63 ha). Tỉnh Yên Bái đã phê duyệt "Đề án phát triển sản xuất cây ăn quả có múi giai đoạn 2016 - 2020”, mục tiêu đến năm 2020 hình thành vùng trồng cây ăn quả có múi trên 4.000 ha. Giai đoạn 2016 - 2020 hỗ trợ trồng mới, cải tạo là 2.300 ha các loại cây ăn quả có múi gồm cam, quýt, bưởi. Đầu tư thâm canh, phấn đấu nâng cao năng suất cây ăn quả có múi từ 45 tạ/ha (năm 2014) lên trên 60 tạ/ha (năm 2020). Tổng giá trị cây ăn quả các loại phấn đấu đạt trên 300 tỷ đồng/năm.

Cây ăn quả có múi đóng vai trò rất tích cực trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng, tái cơ cấu ngành nông nghiệp vùng trung du miền núi phía Bắc. Nhiều địa phương, hộ gia đình, trang trại sản xuất cây có múi trong vùng cho hiệu quả kinh tế cao, có những mô hình cho thu nhập từ 400 – 500 triệu đồng/ha/năm, thậm chí trên 1 tỷ đồng/ha/năm như mô hình cam Cao Phong (Hòa Bình), cam sành (Hà Giang), bưởi Đại Minh (Yên Bái), bưởi Đoan Hùng (Phú Thọ)… 

“Tuy nhiên, sản xuất cây có múi tiềm ẩn nhiều rủi ro, tính bền vững chưa cao, sản xuất manh mún, nhỏ lẻ dẫn đến năng suất và chất lượng sản phẩm chưa ổn định, tính cạnh tranh thấp”, TS Trần Văn Khởi – Q. Giám đốc TTKNQG nhận định.

Các đại biểu tham quan mô hình trồng bưởi tại xã Đại Minh, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái

Một số hạn chế trong sản xuất cây có múi hiện nay:

-  Cơ cấu giống địa phương là chủ yếu, giống thoái hóa, giống chất lượng chưa cao, đặc biệt là nhiều hạt, làm giảm sức cạnh tranh, nhất là sản phẩm ăn tươi. Tỷ lệ cây giống sạch bệnh, chất lượng tốt đưa ra sản xuất đại trà còn rất thấp; cây giống sản xuất và lưu hành trên thị trường chưa được kiểm soát chặt chẽ…

-  Một số biện pháp kỹ thuật như tỉa cành, tạo tán, phòng trừ sâu bệnh, bón phân, tưới nước, thụ phấn bổ sung, kỹ thuật bao quả… mặc dù đã ban hành quy trình nhưng thực hiện chưa hiệu quả.

-  Tổ chức liên kết sản xuất, tiêu thụ giữa nông dân và doanh nghiệp chưa chặt chẽ. Đa số doanh nghiệp chưa quan tâm đầu tư phát triển vùng nguyên liệu, mà chủ yếu thu gom nguyên liệu nên khó khăn trong quản lý truy xuất nguồn gốc, chất lượng không đồng đều, rủi ro cao.

-  Công tác thông tin thị trường; xây dựng thương hiệu, chỉ dẫn địa lý; giới thiệu, quảng bá sản phẩm còn hạn chế, bất cập.

Theo ông Phạm Ngọc Lin - PGĐ Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển cây có múi (Viện Nghiên cứu Rau quả), để hạn chế các rủi ro trong phát triển cây ăn quả có múi, cần có hệ thống các giải pháp kinh tế, kỹ thuật đồng bộ. Một trong những giải pháp là sử dụng cơ cấu giống rải vụ phù hợp: sử dụng bộ giống chín sớm  như cam March (BH), cam CS1; giống chính vụ như cam Xã Đoài, cam Sành; giống chín muộn như V2, quýt PQ… sẽ góp phần giảm áp lực cho vấn đề tiêu thụ sản phẩm và lao động. Bên cạnh đó, cần áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong thâm canh cây ăn quả có múi: tăng cường bón phân hữu cơ, sử dụng các chế phẩm sinh học, tưới nước vào mùa khô, thoát nước vào mùa mưa, tiến hành tỉa cành tạo tán, thụ phấn bổ sung nhằm nâng cao tỷ lệ đậu quả, cải thiện kích thước quả, áp dụng kỹ thuật bao quả để hạn chế phun thuốc trừ sâu và ruồi đục quả…

Bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Phó trưởng Bộ môn Bệnh cây (Viện Bảo vệ thực vật) kiến nghị: Để duy trì và phát triển nền sản xuất cây ăn quả có múi trong bối cảnh bệnh vàng lá greening và nhiều loại sâu bệnh hại khác đang lây lan rộng, chiến lược sử dụng cây giống sạch bệnh và áp dụng các biện pháp thâm canh và quản lý tổng hợp sâu bệnh hại để chống tái nhiễm bệnh trên đồng ruộng cần được tuyên truyền rộng rãi và áp dụng ở các vùng trồng cây có múi trên cả nước.

Các ý kiến tham luận tại diễn đàn cho thấy, đến nay nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được nghiên cứu, áp dụng thành công trong sản xuất cây có múi: Một số giống cây có múi mới đã và đang được phát triển, bổ sung cơ cấu giống trong sản xuất: cam chín sớm BH, cam chín sớm CS1, cam chín muộn Valencia (V2)…; Nhân giống cây có múi sạch bệnh bằng kỹ thuật vi ghép đỉnh sinh trưởng và sản xuất cây giống theo hệ thống nhà lưới 3 cấp (S0, S1, S2); Tưới tiết kiệm nước kết hợp bón phân qua hệ thống tưới; Kỹ thuật thụ phấn bổ sung khắc phục hiện tượng ra hoa nhưng không đậu quả tại một số vùng trồng bưởi tập trung; Kỹ thuật bao trái để hạn chế phun thuốc trừ sâu và ruồi đục trái…

Chia sẻ kinh nghiệm sản xuất cam an toàn, ông Trịnh Văn Hưng (thôn 6, xã Khánh Hòa, huyện Lục Yên, Yên Bái), một hộ nông dân trồng cam lâu năm và tâm huyết với nghề cho biết: Để sản xuất sản phẩm cam an toàn, chất lượng, việc cần làm trước tiên là phải lựa chọn giống cam có chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của địa phương; phải tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật; thường xuyên tham gia các lớp tập huấn, chuyển giao khoa học công nghệ; sản xuất theo nhóm hộ để hỗ trợ nhau cùng phát triển, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh việc chú trọng khâu sản xuất đảm bảo chất lượng, cần quan tâm đến khâu tuyên truyền, quảng bá, đưa sản phẩm đến gần hơn với người tiêu dùng.

“Nhờ áp dụng kỹ thuật chăm sóc cam theo quy trình VietGAP nên cam nhà tôi được nhiều người biết đến, ngay từ khi quả còn xanh đã có nhiều thương lái đến mua cả vườn. Năm 2016, với 3 ha cam, gia đình tôi thu được khoảng 600 triệu đồng” - ông Hưng cho biết.

Trưng bày nhiều sản phẩm cây ăn quả có múi an toàn tại Diễn đàn

Tại Diễn đàn, Ban chủ tọa cùng với các chuyên gia tư vấn đã giải đáp những thắc mắc của người dân về các vấn đề như: chính sách hỗ trợ chuyển đổi cây ăn quả có múi, thay thế vườn cây già cỗi; hỗ trợ thành lập và phát triển hợp tác xã (vốn, tư vấn kỹ thuật, thị trường tiêu thụ…); biện pháp xử lý sâu bệnh trên cây ăn quả có múi như bệnh nấm ở cam sen, bệnh nứt thân chảy nhựa (chảy gôm) ở cây bưởi, bệnh vàng lá greening, vàng lá thối rễ trên cam, bưởi, quýt, sâu đục cành, rệp sáp, nhện đỏ...; khắc phục hiện tượng rụng quả non, rám quả, khô tép; cách thức sử dụng chế phẩm sinh học; sử dụng túi bao quả; công nghệ bảo quản sau thu hoạch; phương pháp nhân giống; giải pháp để cây có múi ít hạt; các giống mới, giống tốt trên thị trường hiện nay; quy định về sản xuất, kinh doanh giống; sản xuất nông nghiệp an toàn VietGAP và duy trì nhãn hiệu tập thể sản phẩm…

Kết luận Diễn đàn, TS. Trần Văn Khởi đã nêu ra một số giải pháp phát triển cây ăn quả có múi an toàn, bền vững vùng trung du miền núi phía Bắc, như sau:

-  Quy hoạch, rà soát quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch vùng sản xuất tập trung, hàng hóa lớn: xác định diện tích của từng loại cây ăn quả theo hướng phát huy tối đa lợi thế đất đai, điều kiện ngoại cảnh; tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, xuất khẩu, thâm canh, đào tạo tập huấn, chỉ dẫn địa lý, tổ chức sản xuất, liên kết sản xuất.

-  Liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm: Tuyên truyền vận động nông dân tự tham gia các hình thức hợp tác liên kết: câu lạc bộ, tổ hợp tác, hợp tác xã,… Khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, liên kết với nông dân trong chuỗi giá trị cây ăn quả có múi từ sản xuất đến thu mua, bảo quản, chế biến, tiêu thụ.

-  Kỹ thuật canh tác tập trung vào các nội dung: giống sạch bệnh, phòng trừ sâu bệnh hại, chăm sóc (tỉa cành tạo tán, bón phân, tưới nước, bao quả); nâng cao tỷ lệ diện tích sản xuất, chứng nhận GAP.

-  Phát triển công nghiệp chế biến sau thu hoạch để mở rộng thị trường, nâng cao giá trị gia tăng (nhất là đối với cam).

-  Tăng cường các hoạt động xúc tiến quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tiếp cận thị trường. Hỗ trợ xây dựng thương hiệu, đăng ký chỉ dẫn địa lý các loại quả có múi.

-  Chính sách: Thực hiện tốt dồn điền đổi thửa, ưu đãi đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nông nghiệp hình thành và phát triển. Xây dựng mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, thành lập các  hợp tác xã sản xuất cây có múi đạt hiệu quả; tăng cường tập huấn nâng cao năng lực của nông dân, lãnh đạo tổ chức nông dân về kỹ thuật cũng như quản trị cộng đồng.

Thay mặt Ban chủ tọa, TS. Trần Văn Khởi đề nghị Trung tâm Khuyến nông các tỉnh: Tiếp tục giải đáp thắc mắc cho bà con nông dân; Tăng cường tư vấn về sản xuất cây trồng nói chung, cây ăn quả có múi nói riêng; Đề xuất nguồn lực với địa phương để mở các lớp tập huấn, xây dựng mô hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, thông tin tuyên truyền những địa chỉ sản xuất hiệu quả để nông dân học hỏi.

Thu Hằng - Ánh Nguyệt

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia

Xem video Diễn đàn tại đây