Tuy nhiên do địa hình phức tạp, giao thông đi lại khó khăn, diện tích ao hồ nhỏ, lại phân bố không tập trung, trình độ sản xuất của người dân còn nhiều hạn chế nên trong thời gian qua việc phát triển nuôi trồng thủy sản trên địa bàn huyện còn gặp nhiều khó khăn.

Nhằm giúp người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số tận dụng tiềm năng mặt nước, nâng cao đời sống, tăng thu nhập, những năm gần đây Trạm Khuyến nông (KN) huyện Hướng Hóa đã triển khai nhiều mô hình nuôi cá nước ngọt tại các xã trên địa bàn huyện. Thông qua mô hình đã giúp người đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã, bản vùng sâu, vùng xa tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Cán bộ kỹ thuật hướng dẫn nông dân kiểm tra tốc độ tăng trưởng của cá

Ông Hồ Văn Bông ở thôn Xa Bai (xã Hướng Linh) đã có thời gian nuôi cá nước ngọt hơn 10 năm. Trước đây, vì nguồn cá giống và kỹ thuật chăm sóc không đảm bảo nên sản lượng và chất lượng cá không cao. Ông Bông cho biết, với ao nuôi diện tích 400m2 ông được thương lái bán cá giống hướng dẫn thả từ 2.000 – 3.000 con. Tuy nhiên do cá giống có kích cỡ nhỏ, thức ăn cho cá chủ yếu là lá sắn, lá chuối, tổ mối… nên hao hụt nhiều, cá chậm lớn, nuôi từ 1,5 – 2 năm mới thu hoạch được khoảng 50 – 70 kg cá. Đầu năm 2017, khi tham gia mô hình “Nuôi cá truyền thống” do Trạm KN huyện triển khai, ông Bông được hỗ trợ 1.000 con cá giống đảm bảo chất lượng, 100% thức ăn công nghiệp cùng với sự hỗ trợ về kỹ thuật trong suốt quá trình nuôi. Nhờ vậy, đến nay sau gần 7 tháng thả nuôi, cá đã đạt kích cỡ từ 0,45 – 0,65 kg/con, đặc biệt tỷ lệ hao hụt thấp, ước tính tỷ lệ sống đạt xấp xỉ 90%.

“Trước đây mình nuôi cá phải gần 2 năm mới thu hoạch được, nhưng cũng được ít lắm, không biết cá mất đi đâu hết. Từ khi được Trạm KN huyện hỗ trợ mô hình này mình thấy cá rất nhanh to, mới nuôi hơn 6 tháng mà cá rô phi đã được gần 5 lạng, cá chép, cá mè, cá trắm cỏ đã được hơn 7 lạng. Mà cá lại rất nhiều, cứ đổ thức ăn xuống là cá lại lên kín một góc ao. Mình mừng lắm. Mình sẽ thu hoạch một ít để gia đình sử dụng và bán cho các hộ xung quanh, số cá còn lại mình sẽ tiếp tục nuôi từ nay đến Tết Nguyên đán để cá có kích cỡ lớn hơn, bán được giá hơn” - ông Bông nói.

Tương tự như vậy, ông Hồ Văn Nam tại thôn Mã Lai (xã Hướng Phùng) cho biết: Trước đây ông chỉ nuôi cá theo hình thức thả tự nhiên, nuôi theo kinh nghiệm của mình, cá tự kiếm ăn trong hồ là chủ yếu, vì thế hiệu quả rất thấp. Ao nuôi có diện tích hơn 800m2, nuôi cả năm mà đến khi thu hoạch chỉ được chưa đầy 1 tạ cá. Từ khi được tham gia mô hình nuôi cá của Trạm KN huyện, ông được dự tập huấn về cách nuôi cá, được hướng dẫn cách cải tạo ao, cách chăm sóc cá, được hỗ trợ hơn 2.000 con cá giống, thức ăn công nghiệp nên cá lớn nhanh. Theo tính toán của ông thì giờ dưới ao phải có trên dưới 1 tấn cá.

Mô hình nuôi cá truyền thống tại thôn Mã Lai (xã Hướng Phùng - huyện Hướng Hóa)

Theo kỹ sư Trương Vy Hùng – Cán bộ kỹ thuật của Trạm KN huyện Hướng Hóa, hiện nay Trạm đang triển khai 10 mô hình nuôi cá nước ngọt truyền thống trên địa bàn 2 xã Hướng Phùng và Hướng Linh với tổng diện tích hơn 5.000m2, mật độ thả 2,5 con/m2. Các giống cá thả nuôi chủ yếu là trắm cỏ, mè, chép và cá rô phi. Đây là các đối tượng có thể nuôi theo hình thức nuôi ghép, quy trình kỹ thuật nuôi phù hợp người dân. Bên cạnh thức ăn công nghiệp còn có thể tận dụng các loại phụ phẩm nông nghiệp có sẵn ở địa phương như mối, giun, lá sắn, cỏ, cám gạo… Qua đánh giá thực tế kết quả sau gần 7 tháng triển khai, các mô hình được đánh giá là khá thành công, các chỉ tiêu về chất lượng và hiệu quả kinh tế đều đạt và vượt mức yêu cầu đề ra như: tỷ lệ sống đạt từ 88% trở lên, trọng lượng cá trung bình từ 0,45 – 0,7 kg/con. Với giá bán hiện nay khoảng 40.000 đồng/kg thì bình quân mỗi hộ thực hiện mô hình cũng thu được từ 25 – 30 triệu đồng.

Chia sẻ những kinh nghiệm rút ra trong quá trình thực hiện mô hình nuôi cá truyền thống này anh Hùng cho biết, đối với đồng bào dân tộc miền núi kinh nghiệm nuôi cá còn nhiều hạn chế, vì vậy việc tuyên truyền, vận động bà con tuân thủ đúng quy trình kỹ thuật là cực kỳ quan trọng và phải tiến hành thường xuyên theo phương châm “cầm tay chỉ việc”. Bên cạnh đó, do không có kinh nghiệm nên người dân chủ yếu mua cá giống do thương lái chở đi bán rong đưa tới, kích cỡ nhỏ, chất lượng không bảo đảm nên tỷ lệ hao hụt cao. Trong khi cá giống do Trạm KN hỗ trợ đều có chất lượng tốt, có giấy chứng nhận rõ ràng.

Anh Hùng cũng lưu ý, các ao nuôi cá ở vùng miền núi đều nằm ở nơi thấp, sát bên sườn đồi nên khi mưa lớn thường kéo theo phù sa xuống ao làm nước ao bị vẩn đục ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của cá hoặc rủi ro hơn là nước lớn có thể làm vỡ ao gây thất thoát cá ra ngoài. Do đó các hộ nuôi cá cần đào các rãnh để cắt dòng nước tránh để các dòng nước từ trên đồi đổ trực tiếp vào ao.

Theo ông Phan Ngọc Long – Phó Chủ tịch UBND xã Hướng Phùng, điểm vượt trội của mô hình là mang lại thu nhập cao, người dân được hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc, cách phòng trị bệnh nên cá phát triển nhanh, tỷ lệ hao hụt thấp. Thời gian thu hoạch từ 1,5 – 2 năm như trước đây được rút ngắn xuống còn từ 8 tháng – 1 năm. Ông Long cho biết, lâu nay đồng bào dân tộc chỉ quen đánh bắt cá tự nhiên ở sông, suối để cải thiện bữa ăn hằng ngày, còn việc nuôi cá thì chủ yếu là chỉ thả cá giống, việc chăm sóc nuôi dưỡng hầu như là “nhờ trời”. Vì vậy bằng những mô hình được triển khai tại chỗ, hỗ trợ kỹ thuật thông qua phương pháp "cầm tay chỉ việc", các cán bộ kỹ thuật của Trạm KN huyện đã tạo được niềm tin cho người dân trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất. Góp phần thay đổi tập quán nuôi cá của đồng bào dân tộc thiểu số từ chỗ chỉ nuôi theo tập quán lạc hậu và kinh nghiệm của bản thân là chính sang nuôi có kỹ thuật, lựa chọn cá giống có chất lượng tốt, đầu tư thức ăn, phòng trị bệnh cho cá…

Ông Long cho biết thêm: Trên địa bàn xã Hướng Phùng có khoảng 15 ha nuôi cá, tuy nhiên ao hồ chủ yếu được đào ở nơi thấp, tận dụng các khe suối để đắp đập, be bờ giữ nước, lắp ống để dẫn nước vào ao nuôi. Vì vậy khi nuôi cá với thời gian dài thì rất dễ bị thất thoát do ảnh hưởng của thời tiết. Với việc rút ngắn được thời gian nuôi xuống còn khoảng 7 – 8 tháng như các mô hình do Trạm KN huyện triển khai sẽ giúp bà con chủ động được thời gian nuôi, né tránh được ảnh hưởng của thiên tai, lũ lụt. Trên cơ sở này, trong thời gian tới UBND xã sẽ có chủ trương vận động bà con nông dân học tập, đào thêm ao nuôi nhằm giải quyết việc làm cho lao động nhàn rỗi, tăng thu nhập cho người dân, góp phần hoàn thành chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững ở địa phương.

Theo ông Phan Ngọc Đồng – Phó Giám đốc Trung tâm KN tỉnh, không chỉ năm 2017 này mà những năm trước Trung tâm KN tỉnh cũng đã chỉ đạo Trạm KN huyện triển khai nhiều mô hình nuôi cá nước ngọt trên địa bàn các xã vùng khó như A Xing, Húc, Pa Tầng… và đã mang về thu nhập cho người dân hàng chục triệu đồng. Thành công của các mô hình này đã khẳng định việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong nuôi cá nước ngọt truyền thống tại khu vực miền núi là rất phù hợp. Thông qua mô hình này, đã chuyển giao được tiến bộ kỹ thuật cho người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số. Từ đó, giúp họ chủ động xây dựng kế hoạch làm ăn, tăng thu nhập và cải thiện đời sống, giảm thiểu việc khai thác tài nguyên rừng.

Thục Quyên