1. Chuẩn bị ruộng nuôi

Chọn ruộng nuôi: Ruộng bằng phẳng, giữ nước tốt, nguồn nước dồi dào, cấp thoát nước thuận lợi, chất nước không bị ô nhiễm, chất đất là loại đất thịt.

Diện tích mỗi ruộng từ 3000-5000m2, nhỏ quá chất nước không ổn định, lớn quá khó quản lý.

Đào mương bao quanh và mương giữa. Mương bao quanh chân bờ sâu 0,8-1,0m, rộng 3-5m. Nếu ruộng rộng, đào thêm ở giữa ruộng hình chữ “+” hoặc “#” rộng 1-1,5m, sâu 0,5-0,8m. Tổng diện tích cả 3 loại mương chiếm khoảng 15-20% diện tích đất ruộng

Lấy đất đào mương để đắp bờ ruộng cho cao và to ra. Chú ý nện đất chặt để nước không bị rò rỉ. Các cửa cống cấp thoát nước phải chắn bằng săm hoặc lưới thích hợp, nền cống phải đầm chặt.

Đặt lưới chắn xung quanh ruộng. Nếu lưới bằng nilon mỏng thì phải đóng cọc cao hơn mặt bờ 40-50cm, lấy dây thép buộc nối các đầu cọc với nhau, gấp đôi tấm nilon lên dây thép cho rủ xuống đất thành 2 lớp rồi vùi sâu trong đất bờ từ 15-20cm. Nếu chắn bằng tấm nhựa hoặc Proximăng thì chỉ cần vùi xuống đất 15-20 cm, đầu trên cao hơn mặt đất ít nhất là 40cm, bốn góc lượn hình cung.

Trồng các loại cỏ nước phủ kín đáy mương và thả các loại cây nổi như bèo tấm, bèo Nhật Bản…khoảng 1/3 mặt nước.

Trước khi nuôi 1-2 tuần, tiến hành tát cạn nước để diệt hết địch hại của cua và tiêu diệt mầm bệnh, bằng cách bón vôi 7-10 kg/100 m2, phơi nắng 3-5 ngày sau đó thì cấp nước vào nhưng không cho nước tràn lên ruộng, chỉ khi nào đến thời kỳ lúa sắp làm đòng mới cấp nước lên ruộng cho cua lên ruộng tìm thức ăn.

Tiến hành gây màu nước bằng phân chuồng hoặc phân hóa học, hoặc chế phẩm sinh học để tạo nguồn động vật phù du phát triển làm thức ăn cho cua giống mới thả.

Dùng vôi sống hàm lượng 75-105 kg/1000m2 hoà nước té đều khắp mương. Trồng các loại cỏ nước phủ kín đáy mương và thả các loại cây nổi như bèo tấm, rau dừa nước, bèo cái khoảng 1/3 mặt nước.

2. Chọn và thả giống

Thời gian thả giống cua là từ khoảng tháng 2 đến tháng 4 hàng năm. Con giống yêu cầu khoẻ mạnh, không thương tật, màu sắc tươi sáng không bị đóng rong

Mật độ: Nếu cỡ giống là 100 -150 con/kg thì mật độ thả là 750con/1000m2 hoặc nếu cỡ giống là 300-600 con/kg thì thả 1800 con/1000m2.

Cách thả: Thả từ mé bờ ao cho cua tự bò xuống ruộng hoặc thả trong tráng sau đó hạ tráng xuống mặt nước cho cua tự bò ra, tránh hiện tượng cua bị sốc môi trường.

Cần thả giống vào mương nuôi tạm trước khi cấy lúa để kéo dài thời gian sinh trưởng của cua. Lúc cấy xong đợi đến thời kỳ lúa con gái thì tăng nước lên ruộng lúa để cua lên ruộng ăn.

3. Thức ăn nuôi cua và cách cho ăn

3.1. Thức ăn nuôi cua:

Cua ăn tạp thiên về thức ăn động vật.  Thức ăn chủ yếu:

o   Thịt các loại nhuyễn thể như trai, ốc, hến, cá tạp.

o   Nếu thiếu thức ăn chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau, nhất là cua mới lột vỏ.

o   Thức ăn nuôi cua thường được khai thác tại chỗ. Trước khi thả giống, nên bón phân lót ở ven mương với lượng 300-450 kg/1000m2 để động vật phù du phát triển làm thức ăn cho cua con.

3.3. Lượng thức ăn:

Từ tháng 1 đến tháng 3, cua chủ yếu ăn thức ăn tinh trộn lẫn với cá tạp băm nhỏ, nấu chín nắm thành từng nắm nhỏ. Lượng thức ăn từ 20-30% trọng lượng cua.

Từ tháng 4 trở lên, cua ăn khoẻ, mau lớn nên cần cho ăn thêm rong cỏ, thức ăn tinh, cá tạp. Lượng thức ăn từ 7-10% trọng lượng cua. Nên thả ốc giống vào ruộng (450-600kg/1000m2 hoặc thả tôm ôm trứng để sinh sản thành tôm con làm thức ăn cho cua cỡ lớn hơn.

Ngoài ra, có thể dùng các loại thức ăn đã chế biến dạng hạt vừa có dinh dưỡng cao. Nếu có điều kiện thì tận dụng cá tạp và phế thải động vật để giảm giá thành.

Cần đặt sàng ăn tại 1 số điểm trong mương để kiểm tra lượng thức ăn của cua. Căn cứ vào thời tiết, nhiệt độ, tình hình ăn mồi của cua để điều tiết lượng thức ăn hàng ngày.

3.4. Thời gian cho ăn:

Mỗi ngày cho cua ăn 2 lần, buổi sáng sớm và chiều tối. sáng cho ăn từ 20-40%, chiều cho ăn chính là 60-80% tổng lượng thức ăn hàng ngày.

Cần đặt sàng ăn tại 1 số điểm trong mương để kiểm tra lượng thức ăn của cua. Căn cứ vào thời tiết, nhiệt độ, tình hình ăn mồi của cua để điều tiết lượng thức ăn hàng ngày

4. Quản lý và chăm sóc

Nước trong ruộng luôn phải đảm bảo sâu từ 5-10 cm. Nước quá béo (đặc màu) thì phải thay nước.

o   Từ tháng 6 đến tháng 9, cứ 2 ngày thay nước 1 lần,

o   Từ tháng 3 đến tháng 5 và từ tháng 10 trở đi mỗi tuần thay nước 1 lần. Mỗi lần thay từ 1/4-1/3 lượng nước ruộng.

Định kỳ bón vôi để bổ sung lượng vôi trong nước, thường từ 15-20 ngày/lần, lượng vôi sống 22kg/1000m2.

Chú ý điều chỉnh lượng cỏ nước ở mật độ nhất định. Định kỳ kiểm tra mương để phát hiện dịch hại gây bệnh, dọn dẹp thức ăn thừa, xác cua chết, đảm bảo nước trong sạch.

5. Thu hoạch

Thời điểm thu hoạch chủ yếu là vào tháng 10. Tuy nhiên nên thu tỉa cua lớn trước, giữ cua nhỏ lại nuôi tiếp.

Thu tỉa bằng cách đặt lờ, lợp… tát cạn, bắt bằng tay nếu thu toàn bộ.

BBT (gt)