BỐI CẢNH RA ĐỜI
Việt Nam là đất nước nông nghiệp với nền văn minh lúa nước lâu đời. Từ xa xưa ông cha ta đã rất quan tâm khuyến khích phát triển canh nông như: thời Hùng Vương, Vua Hùng dạy dân cấy lúa trồng dâu; thời tiền Lê thì có Lễ hội "Tịch điền" và được duy trì đến ngày nay. Thời Trần cũng đã thành lập "Khuyến nông Sứ", sau đó thời vua Quang Trung, năm 1789 cũng ban hành "Chiếu Khuyến nông", trong đó quy định dân lưu tán phải trở về quê quán để sinh sống; làng xã phải cung cấp ruộng đất công cho họ cày cấy; đảm bảo chia ruộng đất một cách công bằng. Sản xuất nông nghiệp thời đó đã được phục hồi mạnh mẽ, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng sau thời gian dài nội chiến…
Sau Cách mạng Tháng 8/1945 và trong suốt những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cùng với nhiệm vụ đấu tranh giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước, Đảng, Chính phủ và Bác Hồ cũng thường xuyên quan tâm chỉ đạo, ban hành nhiều chính sách khuyến nông nhằm khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân.
Giai đoạn những năm 1980 – 1990, tình hình kinh tế - xã hội trong nước gặp rất nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh kéo dài để lại: Các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động yếu kém, sản xuất nông nghiệp sa sút, khiến nước ta phải nhập khẩu lương thực. Nhu cầu đặt ra trong hoàn cảnh đó là cần có cơ quan hướng dẫn, tư vấn giúp hộ nông dân hiểu về chủ trương chính sách và biết vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật để sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Thực tiễn sản xuất đã đặt nhu cầu tất yếu, khách quan cho sự ra đời của Hệ thống Khuyến nông Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu của nông dân, của sản xuất nông nghiệp trong nước và hội nhập với khu vực và thế giới.
Thực hiện công cuộc "Đổi mới" do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI, đặc biệt từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (Khóa VI) về đổi mới cơ chế quản lý trong nông nghiệp, hộ nông dân được giao tư liệu sản xuất và tự chủ sản xuất. Nhiều địa phương đã có “sáng kiến mới”, “cách làm mới” nhằm tăng gia sản xuất, phát triển nông nghiệp, cải thiện đời sống nhân dân.
    |
 |
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Nguyễn Công Tạn thăm ngô đông trên đất lúa tại Vĩnh Phúc, năm 1996 |
Ở tỉnh An Giang, ngày 01/6/1989 Sở Nông nghiệp An Giang đã ban hành Quyết định số 40/QĐ-NN thành lập Ban chủ nhiệm chương trình khuyến nông và tổ chức mạng lưới cộng tác viên khuyến nông ở cơ sở để đề xuất kế hoạch và chỉ đạo thực hiện chương trình khuyến nông theo từng năm, từng vụ sản xuất nông nghiệp.
Ở tỉnh Bắc Thái (nay là tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên), được sự hỗ trợ của Tổ chức CIDSE, năm 1991 tỉnh này đã thành lập “Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bắc Thái” và lập ra 60 cụm Khuyến nông với trên 200 cán bộ (mỗi cụm có 3 - 4 cán bộ khuyến nông phụ trách 3 - 4 xã) để triển khai các chương trình phát triển nông nghiệp của tỉnh. Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bắc Thái đã xây dựng và triển khai 08 phương pháp khuyến nông, trong đó tập trung vào tuyên truyền, vận động, xây dựng ô mẫu trình diễn và tập huấn, hướng dẫn nông dân làm theo. Kết quả: sản lượng lương thực, thực phẩm toàn tỉnh đều tăng, đời sống của người nông dân được cải thiện, tạo việc làm và nâng cao năng lực cho hàng trăm cán bộ,…
Đã có nhiều tỉnh đến tham quan học tập mô hình khuyến nông tỉnh Bắc Thái như: An Giang, Kiên Giang, Hà Tây, Thái Bình, Hải Hưng, Sơn La, Lạng Sơn,… Năm 1992, Bộ Nông nghiệp lên làm việc để đánh giá hiệu quả về mô hình tổ chức khuyến nông, phương pháp hoạt động khuyến nông, nhận thấy các mô hình khuyến nông tại đây có sức thuyết phục, đem lại hiệu quả kinh tế nên bà con nông dân rất tin tưởng. Trên cơ sở đó, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Nguyễn Công Tạn đã chỉ đạo thành lập Ban điều phối Khuyến nông của Bộ và trình Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt ban hành Nghị định số 13/CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ về công tác khuyến nông.
Từ đây, hệ thống khuyến nông Việt Nam chính thức được thành lập trên phạm vi toàn quốc.
Xây dựng hệ thống
Thực hiện Nghị định số 13/CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ, hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đã được tổ chức đồng bộ, thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
Ở Trung ương, Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm là cơ quan thường trực về công tác khuyến nông của Chính phủ, thành lập Cục Khuyến nông để thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác khuyến nông. Bộ Lâm nghiệp giao Vụ Lâm sinh quản lý về công tác khuyến lâm. Bộ Thủy sản giao Vụ Nghề cá quản lý về công tác khuyến ngư.
Ở địa phương, các tỉnh, thành phố thành lập Trung tâm Khuyến nông trực thuộc Sở Nông nghiệp; ở các tỉnh, thành phố ven biển (28 tỉnh, thành phố) thành lập Trung tâm Khuyến ngư trực thuộc Sở Thủy sản. Ở cấp huyện, thành lập Trạm Khuyến nông, Trạm Khuyến ngư trực thuộc Ủy ban nhân dân huyện hoặc trực thuộc Trung tâm Khuyến nông, Trung tâm Khuyến ngư tỉnh. Ở cấp xã hoặc cụm xã bố trí cán bộ khuyến nông cơ sở, cộng tác viên khuyến nông và vận động nông dân có kinh nghiệm sản xuất giỏi tham gia công tác khuyến nông.
Chỉ sau một thời gian ngắn, hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư phát triển rất mạnh mẽ ở tất cả các cấp. Từ chỗ chỉ có vài trăm người (năm 1993), đến năm 2004 tổng số cán bộ khuyến nông cấp tỉnh là 1.446 người (bình quân mỗi Trung tâm Khuyến nông tỉnh có 23 người); 520/637 huyện có Trạm Khuyến nông (chiếm 81%) với tổng số cán bộ khuyến nông cấp huyện là 1.716 người (bình quân mỗi Trạm có 3- 4 người); 7.434/10.502 xã sản xuất nông nghiệp có khuyến nông viên cơ sở (chiếm 70,7%).
Ngoài ra, cả nước còn có 3.918 câu lạc bộ khuyến nông với 176.300 hội viên do nông dân tự nguyện tham gia theo hướng dẫn của cán bộ khuyến nông nhà nước.
Thời kỳ mới thành lập, hệ thống khuyến nông tập trung hỗ trợ phát triển kinh tế nông hộ và xoá đói giảm nghèo; hướng dẫn nông dân ứng dụng các giống cây trồng, vật nuôi có ưu thế lai tốt, có thời gian sinh trưởng ngắn để chuyển đổi cơ cấu sản xuất, tăng vụ, tăng năng suất, sản lượng.
    |
 |
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT Bùi Bá Bổng thăm mô hình trồng thanh long ruột đỏ tại Hà Nội, năm 2009 |
Hoạt động khuyến nông triển khai theo 19 chương trình khuyến nông trọng điểm quốc gia như: Chương trình thông tin tuyên truyền, đào tạo huấn luyện khuyến nông; các chương trình khuyến nông về ứng dụng các giống mới như lúa lai, ngô lai, lạc, đậu tương, mía, các loại rau, quả ngắn ngày, có ưu thế lai cao để tăng năng suất, chuyển đổi mùa vụ, tăng vụ để tăng sản lượng, tăng hiệu quả sử dụng đất; các chương trình khuyến nông chăn nuôi tập trung vào ứng dụng các giống vật nuôi lai có tỷ lệ máu ngoại cao như bò lai hướng thịt, hướng sữa, lợn lai hướng nạc, các giống gia cầm, thủy cầm lai chuyên thịt, chuyên trứng; các chương trình khuyến lâm tập trung vào phát triển nông lâm kết hợp để phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, trồng rừng nguyên liệu thâm canh, phát triển các loài cây lâm nghiệp bản địa.
Trong lĩnh vực thủy sản: các chương trình khuyến ngư tập trung phát triển 5 lĩnh vực trọng điểm là: cải tạo giống thuỷ sản; phát triển nuôi tôm sú; nuôi thuỷ sản nước lợ, nước mặn, nuôi biển đảo; nuôi thuỷ sản nước ngọt; khai thác hải sản xa bờ và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản.
Thông qua việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ kết hợp với chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ đã góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ, tăng năng suất, sản lượng, giá trị trên mỗi đơn vị diện tích, góp phần tăng thu nhập, cải thiện đời sống người nông dân. Từ các mô hình đã thúc đẩy phong trào xây dựng cánh đồng thu nhập 50 triệu đồng/ha, thậm chí hàng trăm triệu đồng/ha/năm phát triển rộng khắp trên toàn quốc.
Vai trò cốt lõi của khuyến nông viên cơ sở
Để công tác khuyến nông tiếp tục phát triển, bám sát thực tiễn sản xuất, đồng hành với người nông dân, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56/2005/NĐ-CP ngày 26/4/2005 và Nghị định số 02/2010/NĐ-CP ngày 08/01/2010 để phát triển hệ thống khuyến nông từ trung ương tới cơ sở.
Ở Trung ương, năm 2003, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành lập Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Bộ Thủy sản thành lập Trung tâm Khuyến ngư Quốc gia là đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ quản lý nhà nước về khuyến nông, khuyến ngư. Đến năm 2008, khi Quốc hội, Chính phủ quyết định hợp nhất Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Thủy sản, Bộ đã tiến hành hợp nhất Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Trung tâm Khuyến ngư Quốc gia thành Trung tâm Khuyến nông - Khuyến ngư Quốc gia. Đến năm 2010, Bộ đã quyết định đổi tên thành Trung tâm Khuyến nông Quốc gia, là đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ công tác quản lý nhà nước về khuyến nông của Bộ và đầu mối triển khai thực hiện các chương trình, dự án, nhiệm vụ khuyến nông trung ương trên phạm vi cả nước.
Ở địa phương, các địa phương tiếp tục xây dựng, phát triển hệ thống tổ chức khuyến nông các cấp theo Nghị định của Chính phủ: ở cấp tỉnh có Trung tâm khuyến nông trực thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; ở cấp huyện có sản xuất nông nghiệp có Trạm khuyến nông trực thuộc Trung tâm khuyến nông tỉnh hoặc Ủy ban nhân dân huyện; ở xã, phường, thị trấn có sản xuất nông nghiệp có khuyến nông viên với số lượng là 02 khuyến nông viên ở các xã thuộc địa bàn khó khăn, 01 khuyến nông viên cho các xã còn lại; ở thôn, bản, cấp, phum, sóc có cộng tác viên khuyến nông và câu lạc bộ khuyến nông.
Theo báo cáo của các địa phương, đến năm 2015, tổng số cán bộ khuyến nông các cấp trên toàn quốc là 36.812 người (trong đó: cấp trung ương là 92 người, cấp tỉnh là 2.114 người, cấp huyện là 4.347 người, cấp xã là 8.880 người, cấp thôn bản là 21.379 người) và khoảng 3.000 câu lạc bộ khuyến nông với số lượng hàng trăm ngàn nông dân ở các vùng, miền trong cả nước.
Trong giai đoạn này, bên cạnh việc tiếp tục chuyển giao ứng dụng kỹ thuật tăng năng suất, sản lượng để xoá đói giảm nghèo, nội dung hoạt động khuyến nông đã chuyển dần sang chú trọng hỗ trợ các đối tượng nông dân sản xuất hàng hoá, áp dụng kỹ thuật thâm canh hợp lý và công nghệ hiện đại để tăng chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm, đồng thời chú trọng bồi dưỡng nâng cao kỹ năng quản lý nông trại và kiến thức về thị trường cho nông dân để tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường quốc tế, tăng thu nhập cho nông dân và đảm bảo phát triển bền vững.
Các chương trình khuyến nông về áp dụng thực hành nông nghiệp tốt (GAP) trong sản xuất nông, lâm, thủy sản; áp dụng kỹ thuật canh tác lúa theo "3 giảm 3 tăng", "1 phải 5 giảm", “cơ giới hóa đồng bộ", ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao, liên kết chuỗi giá trị nông sản từ sản xuất đến tiêu thụ theo mô hình “cánh đồng mẫu”, “trang trại mẫu”… được triển khai rộng rãi và đạt kết quả rất tích cực. Đồng thời, hệ thống khuyến nông cũng tích cực tham gia các chương trình mục tiêu quốc gia như: Chương trình đào tạo nghề nông nghiệp cho lao động nông thôn, Chương trình xây dựng nông thôn mới, Chương trình vệ sinh an toàn thực phẩm, Chương trình phòng tránh và thích ứng với biến đổi khí hậu,…
Tái cơ cấu hệ thống tạo chuyển biến về chất
Thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 của BCH Trung ương Khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập, từ năm 2018 đến nay, các địa phương đã tiến hành rà soát, sắp xếp lại hệ thống tổ chức ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các cấp, trong đó có hệ thống khuyến nông theo hướng như sau:
Cấp tỉnh: Thực hiện rà soát, điều chỉnh, bổ sung chức năng nhiệm vụ, tinh gọn bộ máy tổ chức khuyến nông cấp tỉnh; hợp nhất tổ chức khuyến nông với các đơn vị sự nghiệp khác trong ngành Nông nghiệp để giảm đầu mối.
Cấp huyện: Hợp nhất Trạm Khuyến nông, Trạm Bảo vệ thực vật, Trạm Thú y để thành lập Trung tâm Dịch vụ Nông nghiệp cấp huyện và bàn giao cho Ủy ban nhân dân huyện quản lý (36 tỉnh, thành phố đã tiến hành hợp nhất); hoặc tổ chức lại các Trạm khuyến nông huyện thành Trạm khuyến nông liên huyện hoặc Trạm khuyến nông khu vực (03 tỉnh).
Cấp cơ sở (xã, thôn): tổ chức lại lực lượng cán bộ khuyến nông cơ sở thành các tổ khuyến nông cộng đồng theo Chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 – 2025 (đến nay đã có 43 tỉnh đang triển khai áp dụng).
Công tác khuyến nông giai đoạn này tập trung triển khai gắn với các chương trình trọng tâm, trọng điểm của ngành theo hướng chuyển đổi từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, với các nhiệm vụ như chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất phục vụ đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp; phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; phát triển các sản phẩm quốc gia, chủ lực của ngành và phát triển các sản phẩm đặc sản, thế mạnh của từng địa phương theo chương trình mỗi xã một sản phẩm (OCOP); đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ sản xuất cho người nông dân, góp phần xây dựng người nông dân chuyên nghiệp…
HỆ THỐNG KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn như: Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 16/6/2022 của BCH Trung ương Đảng khóa XIII về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Quyết định số 150/QĐ-TTg ngày 28/01/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050;… Trong đó có những chủ trương, định hướng về củng cố, phát triển hệ thống tổ chức khuyến nông Việt Nam: “Đổi mới mạnh mẽ hình thức tổ chức và hoạt động khuyến nông, đảm bảo bộ máy tinh, gọn, hiệu quả, phù hợp với từng loại hình sản xuất và địa phương; tăng cường phối hợp giữa khuyến nông nhà nước với khuyến nông của doanh nghiệp; phát triển khuyến nông điện tử, khuyến nông cộng đồng…”.
Thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương, Chính phủ đã giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng Chiến lược phát triển khuyến nông Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2050, với mục tiêu nhằm củng cố, kiện toàn hệ thống tổ chức khuyến nông nhà nước xuyên suốt từ trung ương đến cơ sở, đảm bảo giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong hoạt động khuyến nông.
Trong giai đoạn tới, mục tiêu của ngành Nông nghiệp là xây dựng nền nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Khuyến nông cần được coi là quốc sách hàng đầu để nâng cao “nông trí” và chuyên nghiệp hóa người nông dân. Vai trò của hệ thống khuyến nông không chỉ đơn thuần là kết nối, chuyển giao khoa học kỹ thuật, mà quan trọng hơn còn có ý nghĩa mang tính chính trị, an sinh xã hội, đặc biệt là đối với vùng sâu, vùng xa. Chúng ta tin tưởng rằng, hệ thống khuyến nông Việt Nam sẽ tiếp tục được củng cố và phát triển để thực hiện sứ mệnh của mình theo phương châm “Ở đâu có nông dân, ở đó có khuyến nông”.
    |
 |
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan thăm sản phẩm nông nghiệp tại Đồng Tháp, năm 2018 |