Phát huy sức mạnh của hệ thống, hoạt động khuyến ngư đã đồng hành cùng bà con nông ngư dân cả nước với 35 dự án được triển khai, đồng nghĩa với 35 tiến bộ kỹ thuật đã được chuyển giao cho các cơ sở nuôi, sản xuất, chế biến, khai thác thủy hải sản gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm góp phần duy trì sản xuất để vượt qua khó khăn.

Các hoạt động cụ thể của khuyến ngư trong năm 2023:

Phát triển nuôi các đối tượng thủy sản chủ lực

Công nghệ, kỹ thuật được chuyển giao: Kỹ thuật nuôi tôm 2 - 3 giai đoạn công nghệ cao 4.0, công nghệ sinh học, nuôi theo VietGAP; nuôi tôm sú - lúa, tôm - rừng kết hợp 2 - 3 giai đoạn theo hướng hữu cơ, công nghệ sinh học; công nghệ ương nuôi giống cá tra 2 giai đoạn. Các dự án có quy mô trên 7.000 ha tập trung tại các tỉnh vùng Đồng Bằng sông Cửu Long.

Mô hình nuôi tôm công nghệ 4.0, nuôi tôm 2 giai đoạn, sinh học, công nghệ nuôi tôm vụ đông tăng năng suất từ 7 - 8 tấn/ha lên 30 - 40 tấn/ha. Nuôi tôm - lúa, tôm - rừng hướng hữu cơ giúp tăng hiệu quả kinh tế lên 40 - 50%, đây là mô hình nuôi tôm “thông minh”, giảm chi phí, thân thiện với môi trường, phát triển bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu.

Mô hình ương nuôi cá tra giống 2 giai đoạn đảm bảo chất lượng tăng tỷ lệ sống trên 15%, năng suất đạt trên 15 tấn/ha; 100% sản phẩm cá tra giống được liên kết tiêu thụ, hiệu quả đạt trên 20%.

Phát triển nuôi biển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu

Ngư dân nuôi biển được chuyển giao công nghệ nuôi biển lồng HDPE với các loài có giá trị kinh tế cao: cá chim, cá mú, cá giò, tôm hùm, cá chim vây vàng… Lồng nuôi có thể chịu bão đến cấp 12, giúp giảm rủi ro, tăng hiệu quả. Nhờ đó, phát triển bền vững nghề nuôi biển xa bờ.

Dự án triển khai được trên 5.000 m3 lồng HDPE, năng suất đạt trên 15 kg/m3, tại các tỉnh: Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Kiên Giang. Kết quả, mô hình đã tác động làm thay đổi phương thức nuôi theo tập quán cũ của người dân chủ yếu sử dụng thức ăn tươi sống chuyển sang thức ăn công nghiệp và sử dụng vật liệu lồng HDPE có khả năng chống chịu với mưa bão để phát triển bền vững nghề nuôi biển, giúp nâng cao tỷ lệ sống của thủy sản nuôi, giảm rủi ro, tăng hiệu quả kinh tế.

leftcenterrightdel
 Ngư dân nuôi biển được chuyển giao công nghệ nuôi biển lồng HDPE

Phát triển nuôi thuỷ đặc sản trong lồng bè trên sông và hồ chứa gắn với liên kết tiêu thụ sản phẩm

Dự án nuôi cá lồng bè trên sông và hồ chứa với các loại: cá diêu hồng, cá lăng chấm, cá chiên, cá bỗng, cá lăng nha, cá nheo Mỹ… Kết quả, năng suất các mô hình đạt trên 15 kg/m3; áp dụng các tiêu chuẩn chất lượng theo VietGAP, An toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc… Dự án triển khai được trên 5.000 m3 lồng trên sông và hồ chứa, năng suất đạt trên 10 kg/m3, tại các tỉnh miền núi phía Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Dự án giúp nâng cao hiệu quả kinh tế trên 30%, góp phần triển bền vững nghề nuôi cá lồng bè nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng sản phẩm gắn với tiêu thụ sản phẩm.

Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nâng cao hiệu quả nghề khai thác hải sản xa bờ

- Phát triển cơ giới hóa nghề lưới rê tầng đáy vùng khơi

Mô hình sử dụng 1 hệ thống động cơ thủy lực tích hợp hệ thống tang thành cao đồng trục thu/thả lưới thay vì phải sử dụng 4 bộ máy tời tang ma sát theo truyền thống. Kết quả cho thấy mô hình giảm số lượng lao động từ 2 - 3 người; gia tăng tuổi thọ giềng tời lên 1,5 lần; tốc độ thu lưới gấp ½ lần so với tời truyền thống. Tốc độ thu lưới nhanh giúp tiết kiệm thời gian thu lưới, kéo theo chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế tăng trên 30%.

- Ứng dụng chuyển giao hầm bảo quản trên tàu cá

Hầm bảo quản sử dụng vật liệu PU (polyurethane) có hệ số dẫn nhiệt thấp, tỷ lệ dãn nở, độ bền cao kết hợp vật liệu compiste để chế tạo hầm bảo quản tàu cá thay thế công nghệ đóng hầm tàu cá bằng hình thức ghép vật liệu bọt xốp (Styrofor). Công nghệ này giúp đảm bảo độ kín nước, tránh thẩm thấu nước đá, giảm tổn thất truyền nhiệt. Nhờ đó tiết kiệm được gần 30% lượng đá hao hụt, giữ được chất lượng nguyên liệu thủy sản sau khai thác. Việc làm này giúp kéo dài thời gian đánh bắt của ngư dân trên biển nhưng vẫn đảm bảo muối cá tươi đạt chất lượng, nâng cao hiệu quả kinh tế tăng 25%.

- Dự án ứng dụng công nghệ đèn led trên tàu lưới vây

Ngư dân khai thác tàu lưới vây sử dụng công nghệ đèn LED có góc phát sáng, quang phổ phù hợp để thay thế loại đèn truyền thống halogen. Kết quả giúp tiết kiệm 30 - 60% nhiên liệu chạy máy phát điện, giảm 18 - 22% chi phí chuyến biển, góp phần bảo vệ môi trường, lợi nhuận trung bình tăng 25 - 40% mỗi chuyến biển. Năm 2023, nhiều địa phương đã đang ký mở rộng, hỗ trợ cho bà con ngư dân mô hình này.

ng dụng hệ thống nhật ký khai thác thủy sản điện tử

Hệ thống nhật ký khai thác thủy sản điện tử sử dụng công nghệ số, cho phép số hoá toạ độ, thông tin sản lượng, thành phần loài đánh bắt thống kê mẻ lưới, sản lượng đánh bắt và truyền dữ liệu đánh bắt qua sóng điện tử. Mô hình đã hỗ trợ chủ tàu nhập, lưu trữ, báo cáo dữ liệu khai thác (tọa độ, sản lượng, đối tượng đánh bắt...) dễ dàng, nhanh chóng giúp tiết kiệm thời gian, công sức, đặc biệt hiệu quả trong điều kiện thời tiết xấu. Phục vụ công tác quản lý nhà nước, truy xuất nguồn gốc hải sản, chống khai thác bất hợp pháp IUU.

- ng dụng chế phẩm sinh học trong chế biến nước mắm

Sử dụng chế phẩm vi sinh vật tác động trong chế biến nước mắm rút ngắn thời gian phân giải so với nước mắm truyền thống là 2 tháng, hạn chế sự hình thành đạm xấu, kiểm soát mùi mắm, rút ngắn thời gian ủ tạo hương, tiết kiệm được chi phí về nhân công do rút ngắn thời gian thủy phân và lên hương, tăng giá trị sản phẩm. Mô hình có kỹ thuật đơn giản, dễ áp dụng, hiệu quả cao nên mô hình đã được nhân rộng tại nhiều cơ sở sản xuất nước mắm.

Ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật giúp nâng cao hiệu quả và chất lượng muối Việt Nam.

Dự án chuyển giao công nghệ cơ giới hoá và trải bạt HDPE theo hình thức phơi nước phân tán trong sản xuất muối giúp nâng cao chất lượng, tỉ lệ nhiễm tạp chất trong muối giảm khoảng 30% so với muối ao đất, rút ngắn thời gian giữa các lần thu hoạch, dễ dàng xử lý khi gặp thời tiết bất lợi, năng suất muối trải bạt đạt trên 100 tấn/ha/năm cao hơn 35%, giá bán cao hơn 15 – 36% so với muối sản xuất truyền thống. Giúp nâng cao hiệu quả, giảm bớt sức lao động góp phần bảo tồn vùng nguyên liệu sản xuất muối tại các tỉnh Nam Định, Thái Bình, Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bến Tre và Bạc Liêu.

Xuân Trường

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia