Tại toạ đàm về Đổi mới cách tiếp cận giảm nghèo “để không ai bị bỏ lại phía sau” do Báo Nông nghiệp và Môi trường tổ chức, ông Lê Minh Lịnh, Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia nhận định rằng: Khuyến nông không chỉ đơn thuần là chuyển giao kỹ thuật mà còn là cầu nối tri thức và thị trường, giúp hàng triệu người dân nông thôn chuyển hóa năng lực sản xuất, thay đổi tư duy kinh tế và vững tin làm giàu trên chính mảnh đất quê hương. Thông qua các mô hình trình diễn, chương trình thông tin tuyên truyền và đào tạo huấn luyện khuyến nông đã chuyển giao hàng trăm gói công nghệ và tiến bộ kỹ thuật mới vào sản xuất, giúp nâng cao hiệu quả canh tác, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, tạo sinh kế cho người dân, nhất là các địa bàn vùng khó khăn.
Ông Nguyễn Lê Bình, Phó Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo đánh giá cao vai trò của công tác khuyến nông trong thời gian qua: Khuyến nông đã đồng hành cùng cơ quan quản lý và người dân, triển khai nhiều mô hình hiệu quả, không chỉ hỗ trợ về giống, chuyển giao công nghệ mà quan trọng nhất là nâng cao nhận thức cho bà con về nỗ lực thoát nghèo bền vững, hướng dẫn tổ chức sản xuất theo chuỗi hiệu quả (liên kết từ nhóm, hợp tác xã đến tiêu thụ). Thời gian tới, khuyến nông cần đẩy mạnh hơn nữa xây dựng mô hình đa mục tiêu, gắn sản xuất với thị trường để nâng cao thu nhập cho bà con.
Hiệu quả kinh tế vượt trội từ các mô hình
Các mô hình khuyến nông đã mang lại những con số ấn tượng, chứng minh hiệu quả kinh tế vượt trội trên nhiều lĩnh vực. Trong trồng trọt, việc áp dụng quy trình canh tác tiên tiến trong sản xuất lúa giúp giảm chi phí đầu vào 10–12% và tăng hiệu quả sản xuất 10–20%. Đặc biệt, công tác chuyển giao các giống lúa chất lượng cao (như ST24, ST25) đã làm năng suất tăng 30–35%, kéo theo thu nhập của nông dân tăng 20–25%. Đối với cây công nghiệp và cây ăn trái, canh tác chè an toàn theo tiêu chuẩn VietGAP và các mô hình chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả sang cây ăn trái được cấp mã số vùng trồng đã giúp năng suất tăng 15–20%, đồng thời tăng hiệu quả kinh tế/thu nhập từ 20–30%, tạo công ăn việc làm ổn định. Về lâm nghiệp, các mô hình thúc đẩy kinh tế rừng đa giá trị như lâm sản ngoài gỗ thâm canh đã tăng thu nhập hộ 15–20% và giải quyết việc làm cho hơn 2.000 nông dân. Trồng rừng gỗ lớn tăng hiệu quả kinh tế 20–25%, đóng góp thu nhập trung bình 20–25 triệu đồng/ha/chu kỳ. Thậm chí, mô hình vườn ươm cải tiến tại Quảng Trị và Thừa Thiên Huế với công suất 500.000 cây giống/năm còn giúp giảm chi phí đầu vào 30–40%. Hiệu quả cải thiện đời sống còn thể hiện rõ trong chăn nuôi và thủy sản: các dự án chăn nuôi lợn theo VietGAHP giúp lợi nhuận tăng từ 130.000 – 350.000 đồng/con, kỹ thuật thụ tinh nhân tạo trên bò tạo con lai có giá trị cao hơn bò nội khoảng 3–5 triệu đồng/con, giúp hiệu quả kinh tế cao hơn 15%. Trong thủy sản, các dự án công nghệ sinh học và sản xuất tiên tiến giúp năng suất tăng 10–20%, hiệu quả kinh tế tăng trên 20%, điển hình là mô hình luân canh/xen canh tôm-lúa đạt năng suất tôm 600–650 kg/ha (gấp đôi truyền thống). Khuyến nông còn chú trọng các mô hình sinh kế bền vững, ứng phó biến đổi khí hậu (như chăn nuôi bò thích ứng với rét đậm/hạn hán), giúp hàng nghìn hộ nông dân khôi phục sản xuất nhanh chóng và nâng cao năng lực ứng phó rủi ro.
    |
 |
| Khuyến nông không chỉ đơn thuần là chuyển giao kỹ thuật mà còn là cầu nối tri thức và thị trường |
Hoạt động thông tin tuyên truyền và đào tạo huấn luyện là phương pháp hiệu quả nhất để đưa tiến bộ kỹ thuật đến tay người nghèo, phục vụ trực tiếp công tác xóa đói giảm nghèo. Thông tin tuyên truyền được triển khai đa dạng, đặc biệt qua các chương trình trên Đài Tiếng nói Việt Nam sử dụng 11 ngôn ngữ đồng bào dân tộc thiểu số, giúp đưa chủ trương, định hướng phát triển ngành đến tận vùng sâu, vùng xa. Các chương trình tập huấn "cầm tay chỉ việc" trực tiếp chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, quy trình canh tác hiện đại, và giống cây trồng, vật nuôi chất lượng cao. Điều này giúp nông dân từ bỏ tập quán lạc hậu, giảm thiểu rủi ro (sâu bệnh, biến đổi khí hậu), từ đó tăng sản lượng, cải thiện chất lượng nông sản và trực tiếp gia tăng thu nhập. Đội ngũ cán bộ khuyến nông, được trang bị kiến thức chuyên môn, kỹ thuật, kiến thức thị trường và công nghệ số, đã trở thành "người truyền cảm hứng" nòng cốt. Họ góp phần tri thức hóa người nông dân, hợp tác xã chuyên nghiệp hóa, hướng tới cộng đồng sản xuất gắn với chuỗi giá trị bền vững.
Thời gian gần đây, hoạt động khuyến nông đã chuyển dịch mạnh mẽ từ tư duy sản xuất sang tư duy kinh tế nông nghiệp, tập trung vào tổ chức sản xuất theo chuỗi, kinh tế tuần hoàn và ứng phó biến đổi khí hậu. Khuyến nông đóng vai trò hạt nhân trong việc hình thành các chuỗi liên kết bền vững giữa doanh nghiệp với hợp tác xã/nông dân. Nhờ đó, sản phẩm trong chuỗi được thu mua với giá bán cao hơn 10 - 15% so với thị trường đại trà, đảm bảo ổn định đầu ra và hướng tới các sản phẩm có truy xuất nguồn gốc, chứng nhận VietGAP/hữu cơ phục vụ xuất khẩu. Bên cạnh đó, khuyến nông còn tích cực làm cầu nối, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào vùng nguyên liệu của người dân tộc thiểu số, giúp bà con có được hợp đồng bao tiêu dài hạn và tiếp cận kỹ thuật tiên tiến. Các hoạt động này không chỉ tạo thêm công ăn việc làm, góp phần xóa đói giảm nghèo mà còn thúc đẩy phát triển sản phẩm OCOP từ 3 Sao đến 5 Sao gắn với du lịch sinh thái, giúp địa phương hoàn thành tiêu chí 13 về Tổ chức sản xuất trong xây dựng nông thôn mới.
Sự ra đời của tổ khuyến nông cộng đồng (với nòng cốt là nông dân giỏi tại chỗ) đảm bảo tri thức được truyền tải liên tục, kịp thời. Đồng thời, các dự án chuyển đổi số đang được triển khai để ứng dụng công nghệ thông tin trong cung cấp tài liệu, cảnh báo dịch bệnh và kết nối thị trường, khắc phục rào cản địa lý cho người dân vùng xa.
Tầm nhìn chiến lược khuyến nông giảm nghèo 2030
Hướng tới giai đoạn mới, Chính phủ triển khai tích hợp 03 Chương trình mục tiêu quốc gia: Xây dựng nông thôn mới, Giảm nghèo bền vững, Phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thành 01 Chương trình mục tiêu quốc gia, Chiến lược phát triển khuyến nông đặt mục tiêu trên 70% xã ở vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó khăn xây dựng được mô hình khuyến nông giảm nghèo tạo sinh kế ổn định bền vững cho nông dân nghèo vào năm 2030. Để đạt được mục tiêu này, dự án ưu tiên "Khuyến nông giảm nghèo ở các vùng khó khăn" giai đoạn 2026-2030 sẽ tập trung vào:
Xây dựng mô hình sinh kế bền vững gắn với OCOP, phù hợp điều kiện địa phương, gắn với phát triển sản phẩm đặc sản và bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống. Tổ chức tập huấn kỹ thuật tại chỗ, sử dụng ngôn ngữ địa phương, với phương pháp trực quan, thực hành gắn với mô hình cụ thể để đảm bảo hiệu quả tiếp nhận tối đa. Tiếp tục nâng cao năng lực của các tổ khuyến nông cộng đồng và đẩy mạnh đào tạo kỹ năng số, ứng dụng các công nghệ mới (AI, dữ liệu lớn) trong dịch vụ tư vấn khuyến nông. Nhân rộng mô hình và phát triển sinh kế bền vững, huy động nguồn lực và tăng cường phối hợp giữa chính quyền, doanh nghiệp và các tổ chức đoàn thể tại địa phương để hỗ trợ thoát nghèo bền vững. Xây dựng các mô hình chuyển giao biện pháp kỹ thuật canh tác thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng thời đề xuất chính sách khuyến nông gắn với bảo hiểm nông nghiệp để hỗ trợ nông dân giảm thiểu rủi ro.
Với định hướng chiến lược này, khuyến nông chính là “chìa khóa vàng” để xóa nghèo đa chiều và xây dựng một nền nông nghiệp trách nhiệm – minh bạch – hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển nông thôn mới hiện đại, phồn vinh và bền vững.
Thu Hằng
Trung tâm Khuyến nông quốc gia