Năm 2025 là năm đầu tiên dự án được triển khai theo kế hoạch của Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng. Dự án được thực hiện trong thời gian 10 tháng, từ khâu khảo sát địa điểm, lựa chọn hộ nuôi, thả giống, theo dõi kỹ thuật đến thu hoạch, đánh giá và tổ chức hội nghị sơ kết - tổng kết. Các hoạt động được triển khai tại hai điểm mô hình gồm: đặc khu Cát Hải của thành phố Hải Phòng và đặc khu Vân Đồn của tỉnh Quảng Ninh. Đây đều là các vùng trọng điểm phát triển nuôi biển được định hướng chuyển đổi sang nuôi công nghệ hiện đại, bền vững.
Các hộ nuôi được hỗ trợ 70% vật tư thiết yếu (con giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, tư vấn - đánh giá VietGAP, pano nhận diện, tập huấn và hội nghị), còn 30% là vốn đối ứng của hộ dân, cùng toàn bộ nhân công chăm sóc và quản lý trong quá trình nuôi. Cơ chế hỗ trợ - đối ứng này tạo sự linh hoạt, giảm gánh nặng chi phí cho người nuôi nhưng vẫn đảm bảo tính chủ động, trách nhiệm và bền vững của mô hình.
Trong bối cảnh nghề nuôi lồng bè truyền thống bằng gỗ, phao xốp bộc lộ nhiều hạn chế như tuổi thọ thấp, dễ hư hỏng, gây ô nhiễm môi trường và không đảm bảo an toàn mùa bão, dự án triển khai mô hình lồng HDPE đã mang lại hướng đi mới cho nghề nuôi biển Hải Phòng và Quảng Ninh. Lồng HDPE có độ bền 20 -30 năm, chịu được sóng lớn, không gây thất thoát vật nuôi và thân thiện với môi trường biển.
Cùng với đó, cá mú trân châu cho tốc độ sinh trưởng nhanh, ít bệnh, chất lượng thịt ngon và giá trị kinh tế cao. Sau một năm nuôi, cá có thể đạt kích cỡ trên 1,1 kg/con, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu.
Năm, 2025 dự án được triển khai tại đặc khu Cát Hải (Hải Phòng) và đặc khu Vân Đồn (Quảng Ninh), với 12.600 con giống, tổng quy mô 630 m³ lồng HDPE. Các hộ dân được hỗ trợ giống, thức ăn, chế phẩm sinh học, hướng dẫn kỹ thuật và tư vấn chứng nhận VietGAP.
Kết quả thực hiện dự án năm 2025 cho thấy hiệu quả cao hơn so với các chỉ tiêu kỹ thuật và kinh tế đề ra. Tỷ lệ sống của cá đạt 75,8%; cỡ thu hoạch trung bình 1,125 kg/con; năng suất đạt 17 kg/m³, vượt 13,3% so với kế hoạch ban đầu. Tổng sản lượng thu hoạch đạt 10.736 kg, đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn 69,8% so với phương thức nuôi truyền thống. Toàn bộ sản phẩm của mô hình được liên kết bao tiêu 100%, giúp người nuôi yên tâm sản xuất. Đáng chú ý, 100% hộ tham gia đều được hướng dẫn, thẩm định và cấp chứng nhận VietGAP; quy mô nhân rộng mô hình năm 2025 đạt 158,7%, khẳng định tính khả thi và sức lan tỏa trong cộng đồng ngư dân.
Cùng với đó, công tác đào tạo, tập huấn và truyền thông được triển khai đồng bộ, gồm 02 lớp tập huấn xây dựng mô hình với 40 học viên, 02 lớp đào tạo nhân rộng với 60 học viên; tổ chức 02 hội nghị tổng kết điểm và 01 hội nghị sơ kết dự án. Dự án cũng đã lắp đặt 36 pano biển hiệu VietGAP tại các điểm nuôi và đăng tải tin bài tuyên truyền đạt 100% mục tiêu đề ra. Những kết quả này minh chứng cho việc áp dụng lồng HDPE và quy trình VietGAP đang mở ra hướng phát triển bền vững cho nuôi cá song trên biển tại Hải Phòng và Quảng Ninh.
Qua mô hình, người nuôi đã được tiếp cận quy trình VietGAP, nâng cao nhận thức về quản lý môi trường vùng nuôi, giảm sử dụng cá tạp, áp dụng chế phẩm sinh học và ghi chép nhật ký nuôi đầy đủ. Việc áp dụng công nghệ lồng HDPE tạo sự yên tâm, giảm rủi ro mùa bão, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế biển và bảo vệ môi trường.
Tại Hội nghị sơ kết, bà Lương Thị Kiểm - PGĐ Sở Nông nghiệp và Môi trường Hải Phòng ghi nhận và đánh giá cao nỗ lực của Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng, Trung tâm Khuyến nông Quảng Ninh cùng các đơn vị phối hợp trong tổ chức và triển khai Dự án nuôi cá mú trân châu bằng lồng HDPE đạt chứng nhận VietGAP.
Lãnh đạo Sở nhấn mạnh rằng các kết quả đạt được trong năm 2025 khẳng định mô hình có tính khả thi cao, phù hợp với định hướng phát triển nuôi biển công nghiệp, an toàn và bền vững của thành phố và đề nghị các Trung tâm Khuyến nông tiếp tục hoàn thiện quy trình kỹ thuật, bổ sung cơ sở dữ liệu phục vụ nhân rộng mô hình; các đơn vị chuyên môn tăng cường giám sát môi trường vùng nuôi, hướng dẫn áp dụng VietGAP đồng bộ và kiểm soát giống, thức ăn, dịch bệnh. Đồng thời, các địa phương cần quan tâm quy hoạch và quản lý vùng nuôi, hỗ trợ hạ tầng phục vụ chuyển đổi sang lồng HDPE; doanh nghiệp tiếp tục tham gia chuỗi liên kết để bảo đảm tiêu thụ sản phẩm ổn định và nâng cao giá trị cá song trân châu.
Bà Lương Thị Kiểm bày tỏ sự tin tưởng rằng với sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan chức năng, đơn vị khoa học và người nuôi, mô hình sẽ tiếp tục được nhân rộng, đóng góp tích cực vào mục tiêu phát triển kinh tế biển bền vững và nâng cao thu nhập cho ngư dân Hải Phòng và Quảng Ninh.
    |
 |
| Bà Lương Thị Kiểm - PGĐ Sở Nông nghiệp và Môi trường phát biểu tại Hội nghị |
Nguyễn Hương Giang
Trung tâm Khuyến nông Hải Phòng