Bài 1: Chuột chạy cùng sào mới vào… khuyến nông
Chẳng khác gì nhiều so với nông dân, những cán bộ khuyến nông, nhất là khuyến nông viên cơ sở quanh năm suốt tháng đều bám ruộng, bám đồng. Ngoài đồng lương họ chẳng có thu nhập gì khác, nhưng rồi họ tự an ủi: So với nông dân thì dù sao mình cũng có cái mác "cán bộ".
“Chuẩn hóa” đội ngũ khuyến nông
Trong những tỉnh miền núi phía Bắc, Yên Bái có hệ thống khuyến nông khá hoàn chỉnh từ tỉnh cho tới xã. Tính đến cuối năm 2011, Yên Bái có 255 cán bộ làm công tác khuyến nông, với những chuyên ngành đào tạo: Trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp và thuỷ sản. Số cán bộ đó chủ yếu là KNVCS với 177 cán bộ, đa số có trình độ đại học.
Khi tuyển dụng, Yên Bái đưa ra các tiêu chuẩn nhằm "chuẩn hoá" đội ngũ cán bộ khuyến nông ngay từ bước đầu, trừ các xã vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn thì tuyển dụng những cán bộ người địa phương có trình độ trung cấp, hàng năm đều tổ chức cho số cán bộ này đi học để đạt trình độ "chuẩn hoá". Đến nay số cán bộ KNVCS của Yên Bái chỉ còn 49 người có trình độ trung cấp, 4 cán bộ có trình độ cao đẳng.
Mặc dù Yên Bái là tỉnh nghèo, nhưng hàng năm đã trích ngân sách địa phương từ 3,5- 4 tỷ để nuôi đội ngũ KNVCS. Lực lượng này được hưởng lương và các chế độ như cán bộ trong biên chế nhà nước: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tăng lương đúng thời gian…tạo điều kiện để họ gắn bó với nghề.
Hàng năm đội ngũ KNVCS đã tham gia cùng với cán bộ trung tâm khuyến nông, trạm khuyến nông xây dựng hàng chục mô hình trình diễn, tổ chức hàng ngàn lớp tập huấn kỹ thuật… cho hàng chục ngàn nông dân. Năm 2011 đội ngũ khuyên nông Yên Bái đã mở 815 lớp trồng trọt cho 32.282 lượt hộ nông dân, 426 lớp chăn nuôi, thuỷ sản cho 16.904 lượt hộ, 224 lớp lâm sinh cho 9.635 lượt hộ… triển khai 12 dự án, 18 loại mô hình với 113 điểm trình diễn: Cải tạo vườn cây ăn quả, trồng cây nguyên liệu giấy, mô hình SX lúa chất lượng cao, mô hình canh tác sắn bền vững trên đất dốc, mô hình trồng tre măng Bát Độ, mô hình trồng nấm thương phẩm, mô hình chế biến phân hữu cơ, mô hình chăn chăn nuôi bò cái sinh sản…
Các mô hình đó đều gắn với chương trình phát triển nông nghiệp của địa phương hướng tới nền SX nông nghiệp khoa học hiện đại, bền vững. Đội ngũ khuyến nông đã góp một phần tích cực vào sự phát triển kinh tế nông nghiệp của Yên Bái. Năm 2011 sản lượng lương thực có hạt của tỉnh đạt 267.793 tấn, sản lượng chè búp tươi đạt 90.812 tấn, trồng rừng mới 15.015 ha… kinh tế nông-lâm nghiệp tăng trưởng 5,24%.
Cơm cặp lồng, bám đồng bám ruộng
Mặc dù vậy, chế độ đãi ngộ đối với KNVCS còn rất thấp so với mặt bằng chung của xã hội. Bà Trần Thị Hoàn Liên- Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Trấn Yên cho biết: Đội ngũ KNVCS của Trấn Yên hiện có 18 cán bộ trên 22 xã và thị trấn. Tất cả số cán bộ này đều có trình độ đại học. Trong những năm qua họ đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, lương của đội ngũ này rất thấp, ngoài lương thì không có thu nhập gì khác. Vì thế, nhiều cán bộ KNVCS không thật sự gắn bó lâu dài với nghề. Nhiều người có cơ hội thì chuyển sang các ngành khác có thu nhập cao cũng như hướng phát triển tốt hơn.
Anh Triệu Khánh Thiện, khuyến nông viên xã Hoà Cuông cho biết: "Tôi vào làm KNVCS từ 1/4/2010, với mức lương khởi điểm là 1,8 triệu. Sinh hoạt tằn tiện mỗi tháng hết 1,5 triệu, tiền thuê nhà 300 ngàn, thành ra không còn dư đồng nào…". Anh Thiện đã có vợ và một con, nhưng với đồng lương ấy thì chưa tháng nào có tiền gửi cho vợ con, hiện đang phải bám vào nhà bố mẹ vợ. "Nhưng chẳng còn cách nào cả, đã trót bước chân vào nghề này thì phải chấp nhận, so với nông dân một nắng hai sương thì mức lương ấy chúng tôi còn được an ủi", anh Thiện nói.
Không giống như hoàn cảnh anh Triệu Khánh Thiện, chị Hoàng Ánh Tuyết cán bộ khuyến nông xã Y Can không phải thuê nhà, nhưng mỗi ngày đi về hơn chục cây số, tiền lương 2,1 triệu/tháng. Trừ xăng xe mỗi tháng 200- 300 nghìn, còn hơn một triệu chỉ đủ chi phí cho đứa con nhỏ đang học mẫu giáo.
Chị lắc đầu: "Làm KNVCS, mỗi người đào tạo mỗi nghề. Khi tham gia xây dựng mô hình trình diễn, những mô hình mình không được đào tạo thì phải mời khuyến nông có trình độ đó về tập huấn cho bà con, còn mình thì tới các xã khác xây dựng mô hình mình được đào tạo. Thành ra chi phí đi lại, ăn ở tăng cao. Mặc dù mỗi tháng trạm hỗ trợ 100-120 nghìn tiền xăng nhưng cũng chỉ được phần nào, còn ăn uống thì chủ yếu là mì tôm và cơm cặp lồng... Dù vậy vẫn phải bám ruộng, bám đồng để chỉ đạo bà con cày cấy đúng lịch, niềm vui của chúng tôi khi thấy bà con được mùa".
Do thu nhập thấp, trong những năm qua Trạm Khuyến nông Trấn Yên đã có 5 cán bộ khuyến nông viên cơ sở "đi ngang", trong đó có 2 cán bộ chuyển sang Viện Qui hoạch nông lâm nghiệp, 2 cán bộ chuyển sang công chức xã, 1 cán bộ lên phòng nông nghiệp. Thành ra huyện Trấn Yên hiện thiếu 3 cán bộ khuyến nông viên cơ sở, cán bộ các xã khác phải đảm nhiệm công việc của số cán bộ đó. Sự thiếu hụt ấy chắc còn dài dài, bất đắc dĩ người ta mới vào làm khuyến nông viên cơ sở, bởi: Chuột chạy cùng sào mới vào…khuyến nông.
|
Bài 2: Lương thấp, tự an ủi mình
KNVCS luôn sát cánh cùng nông dân Liên kết khuyến nông viên cơ sở (KNVCS) là mô hình mới do Trung tâm Khuyến nông tỉnh Hà Nam thực hiện, bước đầu đem lại hiệu quả. Tuy nhiên, phần lớn KNVCS đều phàn nàn bởi khối lượng công việc quá lớn, song mức phụ cấp thấp; chỉ đủ tiền xăng xe hàng tháng nên họ không mặn mà.
Liên kết KNVCS
Ông Lại Văn Hiếu, Giám đốc TTKN Hà Nam cho biết, là tỉnh thuần nông, người dân Hà Nam chủ yếu sống nhờ vào nông nghiệp, nên rất cần tư vấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật của KNVCS. Đặc thù là mỗi KNVCS chỉ được đào tạo một chuyên ngành nhất định. Trong khi đó, SX nông nghiệp của địa phương lại đòi hỏi KNVCS phải có kiến thức về nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy KNVCS phải liên kết lại thành từng tổ, nhóm nhằm hỗ trợ địa phương SX.
"Vì chỉ có một chuyên môn nhất định, nên khi xuống cơ sở tập huấn, KNVCS vấp phải nhiều câu hỏi khó của bà con về lĩnh vực không đúng chuyên ngành của mình. KNVCS trở nên lúng túng, có trả lời nhưng không đúng chuyên môn", ông Hiếu nói.
Từ thực trạng trên, đầu năm 2011 TTKN Hà Nam đã triển khai mô hình liên kết nhóm KNVCS, thành phần gồm đầy đủ lĩnh vực (trồng trọt, chăn nuôi, thú y…) hoạt động theo vùng, giúp đỡ, hỗ trợ nhau về kiến thức để việc tập huấn có hiệu quả. Đến nay 100% số KNVCS đã thực hiện liên kết nhóm, trung bình mỗi huyện thành lập từ 4 đến 6 nhóm, tổ chức tập huấn thường xuyên, KNVCS thay nhau trả lời bà con bất cứ câu hỏi gì còn thắc mắc.
Phụ cấp "kịch trần" 830.000 đồng/tháng
Việc liên kết KNVCS bước đầu đem lại hiệu quả SX. Ngoài ra KNVCS cũng có thêm kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau về kiến thức chuyên ngành. Anh Nguyễn Văn Quân, cán bộ KNVCS xã Nguyễn Úy (huyện Kim Bảng) chia sẻ: “Với một chuyên ngành trồng trọt như tôi hiện nay thì không thể đáp ứng được nhu cầu của người dân. Từ khi liên kết KNVCS, chúng tôi được làm rất nhiều việc. Thậm chí có ngày phải "chạy sô" đến tối mới về được đến nhà”.
Tuy nhiên, đa số KNVCS đều phàn nàn bởi mức phụ cấp hiện nay quá thấp. Vì thế nhiều người không mặn mà với công việc của mình. Anh Quân cho biết, sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng nông nghiệp, chuyên ngành trồng trọt, anh về làm cán bộ khuyến nông xã, ban đầu mỗi tháng chỉ được phụ cấp vài trăm nghìn. Mới đây lương được tăng lên mức "kịch trần" là 830.000 đồng/tháng. "Kiến nghị mãi cũng chỉ được mức lương đó, nhưng so với KNVCS nơi khác trong tỉnh còn cao hơn, nên đành tự an ủi mình thôi".
Cũng theo anh Quân, mức phụ cấp khuyến nông như hiện nay là quá bèo, không đủ tiền mua xăng xuống cơ sở tập huấn cho bà con, chứ chưa nói đến tiền cho con cái ăn học. Để đảm bảo cho cuộc sống gia đình, anh phải làm thêm nhiều việc khác như trồng rau màu, mở cửa hàng kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật.
Là người cao tuổi nhất trong nhóm KNVCS huyện Kim Bảng, ông Lê Xuân Phường, 53 tuổi (xã Tượng Lĩnh) đã có thâm niên 30 năm công tác khuyến nông. Song đến nay mức phụ cấp của ông cũng chỉ được 580.000 đồng/tháng. Hàng ngày ngoài công việc chuyên môn, ông Phường còn phải làm thêm việc khác. Người dân trong làng, ngoài xã nhờ việc gì ông đều làm hết, khi thì hướng dẫn trồng trọt, khi thì tiêm vacxin cho gia súc, gia cầm.
Ngoài ra ông Phường còn kiêm phụ trách mảng bảo vệ thực vật trong xã, phụ cấp cũng được thêm 415.000 đồng/tháng. “Mình không làm nhiều việc thì con cái mình chết đói hết. Mang tiếng làm cán bộ, đi làm suốt ngày thế mà có tiền đâu? Trước đây chỉ làm khuyến nông, con cái xin tiền nộp học hay nhà có tí việc gì là phải đôn đáo vay mượn khắp nơi”, ông Phường tâm sự.
Chị Trương Thị Thủy, cán bộ KNVCS xã Ngọc Sơn (Kim Bảng) cho biết, sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Thủy sản Nha Trang chị về địa phương làm việc, đến nay mới được một năm. “Nông dân chỉ cày cấy, thu hoạch theo thời vụ, không có nghề phụ thì họ ở nhà nghỉ ngơi. Hôm nay không thích ra đồng thì mai ra. Còn những KNVCS như tôi thì không kể nắng mưa, ngày nào cũng có mặt ngoài đồng. Nghĩ cũng ngại, mỗi lần có đứa bạn đám cưới là lại phải ngửa tay xin tiền mẹ. Nhiều lúc muốn bỏ quách nghề để tìm việc khác, nhưng bỏ rồi cũng chẳng biết làm cái gì”.
Khi hỏi về cơ chế chính sách cho đội ngũ KNVCS, ông Kiều Tuấn, Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Kim Bảng cho biết, toàn huyện có 19 KNVCS, được chia thành 3 nhóm (trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản), các KNVCS đang được hưởng phụ cấp của "ngành dọc" từ Trung tâm Khuyến nông tỉnh, tùy theo bằng cấp mà phụ cấp mỗi mức khác nhau. Thực tế khối lượng công việc của KNVCS rất nhiều, nhưng phụ cấp chẳng được bao nhiêu. Chúng tôi chỉ còn cách động viên họ gắn bó với nghề, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để anh em làm thêm, trang trải cuộc sống.
Ông Lại Văn Hiếu thừa nhận do hưởng chế độ quá thấp nên chưa khuyến khích KNVCS tích cực hoạt động. Thời gian tới Trung tâm sẽ đề xuất nâng mức phụ cấp cho khuyến nông viên như cán bộ thú y, BVTV nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của mạng lưới KNVCS.
Bên cạnh các tổ liên kết KNVCS, toàn tỉnh Hà Nam có 250 câu lạc bộ khuyến nông với 2.500 lượt hội viên thường xuyên tham gia. Ngoài ra, các câu lạc bộ còn phối hợp với các tổ chức đoàn thể như hội nông dân, hội phụ nữ… để tổ chức tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho các hội viên. |
Bài 3: Kiêm nhiệm cả sinh đẻ có kế hoạch
Quảng Trị là địa phương rất quan tâm đến chế độ cho các KNVCS. Từ đầu năm 2008, tỉnh này đã ban hành quyết định quy định nhiệm vụ, quyền lợi của các KNVCS. Theo đó, đối với 45 xã thuộc vùng khó khăn, mỗi xã bố trí 2 KNV, 94 xã còn lại mỗi xã bố trí 1 KNV.
Ba đầu sáu tay lo không xuể
Trình độ của các KNVCS phải đạt từ trung cấp nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản trở lên. Các xã vùng sâu có thể tuyển chọn những người có trình độ tốt nghiệp THPT, có kinh nghiệm SX vào làm công tác khuyến nông.
Ông Nguyễn Trung Hậu- Giám đốc Trung tâm Khuyến nông- Khuyến ngư Quảng Trị cho biết, với KNV cấp xã mỗi tháng họ được hưởng phụ cấp 1 hệ số, tương đương 830.000 đồng, còn cộng tác viên khuyến nông thôn bản được hưởng phụ cấp 0,33 của mức 1 hệ số nói trên. Ngoài ra, nhà nước hỗ trợ 50% tiền đóng bảo hiểm xã hội, y tế cho KNVCS. Mới nhìn, ai cũng tưởng các KNV rất sướng, có phụ cấp rồi còn được hưởng các chế độ bảo hiểm. Song thực ra, các KNVCS đối mặt vô vàn khó khăn, gian khó.
Xã Triệu Trạch của huyện Triệu Phong là một địa phương thuần nông. Mỗi vụ diện tích gieo cấy lúa và cây màu gần 1.000 ha, chưa kể đến hàng trăm hecta nuôi trồng thuỷ sản, trang trại chăn nuôi lớn. Song cả xã chỉ có một KNV là anh Nguyễn Hải Trường. Do vậy, dù anh này có “ba đầu sáu tay” cũng lo không xuể công việc.
Phó Chủ tịch xã Triệu Trạch- ông Nguyễn Phiếu cho biết: Công việc của KNV ngày một nhiều, bởi thực tiễn SX đòi hỏi áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ cao thì sản phẩm nông nghiệp mới có sản lượng nhiều, khối lượng lớn. Do đó, một mình KNV sẽ làm rất vất vả. Anh Trường cho biết, số tiền 830.000 đồng phụ cấp hàng tháng không đủ tiền mua xăng đổ xe máy chạy làm việc hàng ngày.
Tuy không phải ngày nào KNV cũng phải có mặt tại trụ sở ủy ban xã, nhưng họ phải thường xuyên có mặt khắp đồng để nắm bắt tình hình, tâm tư nguyện vọng của bà con nông dân, chưa kể phải đi trực báo cụm, lên huyện họp, tập huấn... Có tháng các KNV không đủ tiền đủ xăng đi làm. Mà không đi là không được, làm nông nghiệp chỉ cần chậm một vài ngày là coi như thất bát.
Còn ở xã Gio Quang, huyện Gio Linh, KNV Trần Xuân Niệm cho biết, mặc dù được xã cho làm bán chuyên trách, nhưng với mức trợ cấp 830.000 đồng/tháng là quá thấp. Là một xã nông nghiệp với diện tích trồng lúa mỗi vụ hơn 500 ha và rất nhiều mô hình kinh tế nông nghiệp khác thì KNV xã làm rất nhiều việc mới có thể góp phần giúp bà con được mùa màng thắng lợi.
Ông Nguyễn Hữu Chính- Bí thư kiêm Chủ tịch xã Gio Quang, cho biết: KNV rất nhiều việc nên không thể cho làm việc kiêm nhiệm được, vì sẽ không có kết quả tốt. Mặc dù xã rất tạo điều kiện cho KNV song thực tế thu nhập của họ cũng khá thấp so với giá cả thị trường. Còn ông Niệm thì tâm sự: “Bốn đứa con của tôi luôn hỏi bố làm việc gì mà đi suốt ngày ngoài đồng mà không kiếm nổi đủ tiền cho con mua sách vở đi học? Nghe cháu hỏi tôi thương quá, mà chẳng biết trả lời thế nào. Vì "việc nước" tôi phải bám đồng bám ruộng. Mấy sào ruộng của gia đình đều vợ đứng ra làm lụng hết”.
Kiêm nhiệm cả mảng Văn xã
Ở một huyện có thế mạnh về nông nghiệp như huyện Hải Lăng, song thực tế công việc KNVCS nhiều xã phải làm kiêm nhiệm. Ông Nguyễn Giáp- Trưởng phòng NN- PTNT huyện cho biết, do muốn được tăng thu nhập nên các KNV ở các xã còn kiêm thêm công việc khác như Văn phòng kiêm KNV, hay KNV kiêm dân số- kế hoạch hóa gia đình. Kiêm nhiệm như vậy sẽ tăng thu nhập cho các KNV, nhưng chuyên môn công việc nhất định sẽ không đảm bảo.
"Thực tế do phụ cấp của KNVCS rất thấp nên có xã cho làm kiêm nhiệm, vì vậy không phát huy được vai trò của các KNVCS. Một khó khăn nữa, các KNV được uỷ ban xã quản lý về con người, các trạm khuyến nông huyện quản lý về chuyên môn nên trong điều hành còn nhiều điều chưa đồng nhất, mà vấn đề kiêm nhiệm là một điển hình", ông Hậu nói. |
Còn ở huyện Cam Lộ, ông Đào Mạnh Hùng- Phó Chủ tịch huyện băn khoăn: Mặc dù tỉnh cũng cố gắng rất nhiều, nhưng mức trợ cấp cho các KNV và CTV thôn bản như vậy cũng "gọi là" thôi, nên anh em cơ sở phải kiêm nhiệm thêm nhiều công việc để có thu nhập nuôi sống gia đình. Huyện Cam Lộ chủ yếu SX nông nghiệp nên vai trò của các KNV rất quan trọng. Họ là những người tiên phong ứng dụng khoa học kỹ thuật vào SX để mùa màng thắng lợi. Công việc của anh em ở cơ sở khổ lắm, so với thực tế thì điều kiện sống của họ còn rất thấp. Mong các cấp, ngành có sự hỗ trợ lớn hơn cho KNV.
Ông Nguyễn Trung Hậu- Giám đốc Trung tâm KN- KN Quảng Trị cho biết, toàn tỉnh có 186 KNV cấp phường, xã và 1.077 CTV khuyến nông thôn bản. Lực lượng này cơ bản làm tốt nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế như trình độ chưa đồng đều, chưa tâm huyết, chưa chịu khó học hỏi để nâng cao kiến thức về chuyên môn, nghiệp vụ; chưa chủ động phối hợp với các tổ chức đoàn thể ở địa phương để tham mưu cho UBND xã các chính sách, chương trình khuyến nông. Ngoài ra họ còn thiếu tự tin khi tổ chức triển khai hoặc tuyên truyền, vận động nông dân áp dụng khoa học kỹ thuật vào SX.
Cũng theo ông Hậu, chế độ đãi ngộ cho KNVCS và CTV khuyến nông thôn bản đang thấp, chưa thực sự giúp họ cải thiện được cuộc sống gia đình nên làm ảnh hưởng đến chất lượng công việc. Muốn khuyến khích hết khả năng của các KNV nên có chế độ đãi ngộ hơn nữa cho lực lượng này.
Bài 4: Chảy máu chất xám
Tại Bình Định, không một hoạt động nào liên quan đến sản xuất nông nghiệp mà không có KNVCS. Công việc ngập đầu là thế, nhưng 1 tháng làm việc của họ chỉ bằng nông dân bán 1 buồng chuối.
Lương cao nhất cũng không đủ tiền xăng
Từ năm 2011 trở về trước, khoản tiền phụ cấp mà những KNV ở Bình Định được hưởng nghe mà cứ bị sốc: Mức cao nhất 400.000 đ/người/tháng, mức thấp nhất 80.000 đ/người/tháng. Năm 2011 vừa qua, mức phụ cấp của KNV ở địa phương này đã có cải thiện đáng kể nhờ Quyết định số 22/2010/QĐ-UB (ngày 8/9/2010) của UBND tỉnh Bình Định về việc: “Ban hành quy định chức danh, số lượng; 1 số chế độ chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở các cấp cơ sở”, thế nhưng xem ra mức lương đó vẫn còn rất “bèo bọt” so với thực tế cuộc sống.
Ông Nguyễn Xuân Thưởng- GĐ Trung tâm Khuyến nông-Khuyến ngư Bình Định cho biết: “Hiện KNV trên địa bàn tỉnh Bình Định đang được hưởng những mức phụ cấp khác nhau. Mức cao nhất là 830.000 đ/người/tháng, mức thấp nhất 300.000 đ/người/tháng.
Cũng theo ông Thưởng, do mức phụ cấp cho KNV hiện được trả từ nhiều nguồn, nhiều cấp nên mới có sự khập khiễng. Ông Thưởng đơn cử: “Sau năm 2010, huyện Vĩnh Thạnh nhờ có nguồn vốn từ Chương trình 30a của Chính phủ nên KNV cấp xã ở địa phương này được trả 830.000 đ/người/tháng. Cộng tác viên khuyến nông ở thôn, bản được trả 350.000 đ/người/tháng. Những địa phương trả phụ cấp từ ngân sách huyện như: Phù Mỹ, Phù Cát và An Nhơn trả theo hệ số 1 được 830.000 đ/người/tháng. Huyện Hoài Nhơn và TP Quy Nhơn trả 0,9 theo hệ số 1 là 748.000 đ/người/tháng. “Hẻo” nhất là huyện An Lão và Hoài Ân, KNV chỉ được nhận 300.000 đ/người/tháng".
“Nông dân bây giờ không còn bức xúc về cái ăn, cái mặc nữa. Điều họ cần nhất là các tiến bộ KHKT trong SXNN để ứng dụng vào thực tế, không bị lạc hậu, nhằm xóa đói giảm nghèo bền vững. Bởi vậy, lực lượng KNV cần được Nhà nước quan tâm”, ông Nguyễn Trọng Hường-Phó Chủ tịch UBND huyện Vân Canh. |
Liên hệ những con số nói trên với thời giá hiện nay, chúng ta có thể hiểu cuộc sống của những người đang hoạt động trong hệ thống khuyến nông cơ sở khó khăn đến dường nào. Ông Thưởng nói: “Ngay cả những người được hưởng mức cao nhất cũng không đủ tiền đổ xăng xe máy đi công tác. Trong khi công việc của họ liền chân, liền tay”.
Anh Lê Thanh Long- KNV xã Ân Nghĩa (Hoài Ân) than thở: “Ngày công lao động phổ thông hiện cũng đã được từ 100.000- 120.000 đ/người/ngày. Trong khi làm việc cả tháng chúng tôi chỉ nhận được 300.000 đồng, mới đủ mua hơn 10 lít xăng. 1 người chạy xe ôm chở heo ở Hoài Ân làm 1 ngày bằng tui làm 1 tháng. 1 buồng chuối thu hoạch ở rẫy vợ tui bán tại chợ quê cũng được 300.000 đ”.
Thu nhập là vậy, nhưng công việc của KNV là bề bề. Ngoài công tác khuyến nông, ở cơ sở, KNV nào cũng phải kiêm thêm 1 nhiệm vụ khác như: Cán bộ BVTV, cán bộ nông nghiệp xã hoặc Hội nông dân xã. Trong khi chỉ riêng việc của khuyến nông thôi cũng đã ngập đầu.
“KNVCS phải tham gia hầu hết các chương trình khuyến nông- khuyến ngư ở địa phương để tham mưu cho các cấp trên; tiếp nhận triển khai các mô hình trọng điểm của cấp trên giao; tiếp thu và chuyển giao tiến bộ KHKT vào thực tiễn SX; tham mưu cho địa phương trong công tác tổ chức phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng, vật nuôi; tổ chức tập huấn kỹ thuật đầu vụ cho nông dân trước khi bước vào vụ SX mới…”, ông Nguyễn Văn Hòa, Trạm trưởng Trạm KN- KN huyện Hoài Ân bộc bạch.
KNV xã Ân Nghĩa (Hoài Ân) Lê Văn Long tâm sự: “Ở các huyện miền núi, nếu các thôn, bản mà không có cộng tác viên thì công việc của bọn tui càng “dày”. Nếu dốc sức đi hết ngày này qua ngày kia nhiều khi làm cũng không hết việc. Chỉ nhận được mỗi tháng có 300.000 đồng, bà vợ tui cứ nhăn nhó, bảo tui bỏ việc miết nhưng thú thiệt nếu tui nghỉ thì chẳng ai đảm nhận công việc này. Tui đã nhiều lần đề nghị ủy ban xã trả thêm phụ cấp nhưng lãnh đạo xã bảo “bó tay”, không có nguồn nào để trả thêm”.
1/3 KNV chưa được đào tạo
Thực tế trên đã khiến hệ thống khuyến nông trên địa bàn Bình Định không có sức thu hút nhân lực. Hiện tỉnh này có lực lượng KNV phủ kín các xã, phường, thị trấn có SXNN. Thế nhưng chất lượng chuyên môn của lực lượng này vẫn còn là “lỗ hổng” to tướng. Ông Nguyễn Xuân Thưởng cho biết thêm: Toàn tỉnh Bình Định có 152 KNVCS, trong đó 50 người qua đại học, 68 người trung cấp và 34 người còn lại chỉ qua sơ cấp và các lớp huấn luyện.
Lực lượng này có 12 người là nữ và 3 người là đồng bào dân tộc thiểu số. Trong 152 KNV có 84 người được đào tạo ngành trồng trọt, 13 người đào tạo chăn nuôi, 3 người đào tạo lâm nghiệp, 2 người đào tạo thủy sản và 50 người kể như là “tay ngang” không được đào tạo chuyên ngành gì.
“Ngay cả chuyên ngành đào tạo của mỗi KNV khi áp dụng vào thực tế cũng rất nhiều bất cập. Ví dụ, người chỉ được đào tạo về thủy sản, thế nhưng khi đứng chân trên địa bàn phải “ôm” luôn chuyện từ cây trồng đến vật nuôi thì không lấy đâu ra kiến thức mà làm. Thế nhưng có người làm là quý lắm rồi. Thu nhập ít mà việc thì nhiều nên nếu ai có điều kiện xin được việc khác thì họ “bức” ra ngay. Do đó, hệ thống khuyến nông luôn đứng trước thực tế thiếu cán bộ có chuyên môn tốt”, ông Thưởng bộc bạch.
Có thể đơn cử như ở huyện Vân Canh, nơi chưa hề thu hút được KNV có trình độ ĐH. “Trong số 7 KNV cấp xã hầu hết chỉ qua trung cấp nhưng có chuyên môn rất yếu, còn lại là 48 CTV khuyến nông thôn bản chỉ được qua huấn luyện hoặc làm từ kinh nghiệm”, ông Lê Văn Cẩn- Trưởng trạm KN- KN Vân Canh nói. Hoặc như ở huyện Hoài Ân, hệ thống KNV gồm 15 người, trước đây có 5 người học qua ĐH, thế nhưng bây giờ chỉ còn 5 người có trình độ trung cấp, còn lại là sơ cấp.
Những người không chấp nhận mức lương ĐH chỉ 300.000 đ/tháng đã chuyển công tác khác. Cụ thể anh Lê Văn Đạt (hiện đang công tác tại Trung tâm giáo dục-hướng nghiệp huyện), hoặc như anh Trần Tuấn đã chuyển sang công tác tại Dự án trồng rừng Việt- Đức. Trong khi đó, theo điều 16 của Nghị định 02/2010/NĐ-CP (ngày 8/1/2010) của Chính phủ có quy định chế độ, chính sách của người làm công tác khuyên nông cơ sở như sau “KNV cấp xã được xem là công chức xã, được hưởng lương theo trình độ đào tạo. Nếu không thuộc công chức xã thì được hưởng chế độ phụ cấp hoặc lương theo trình độ đào tạo do chủ tịch tỉnh quy định”.
Ông Thưởng khẳng định: “Địa phương nào còn SXNN là còn cần KNVCS bởi họ là cầu nối giữa nông dân với chính quyền các cấp, và là cầu nối giữa nông dân với các tiến bộ KHKT. Muốn củng cố lực lượng này nhằm đáp ứng được yêu cầu của công việc, cần phải thực hiện NĐ 02 của Chính phủ là phải đưa đội ngũ KNVCS vào hệ thống công chức xã, trả lương theo trình độ đào tạo mới thu hút được nhân lực có trình độ”.
Bài 5: Vì lòng nhiệt huyết
Là những người trực tiếp bám đồng, bám ruộng gắn bó với người nông dân, chuyển giao tiến bộ KHKT vào SX, nhưng tại một số tỉnh, đa số KNVCS là người lớn tuổi, không qua trường lớp đào tạo bài bản mà chỉ dựa vào kinh nghiệm SX.
Hầu hết KNV đều kiêm nhiệm
Lên xã Suối Cát, huyện Cam Lâm (Khánh Hòa) tìm gặp KNV, ông Phó Chủ tịch xã bảo: "Cán bộ khuyến nông đang ở nhà thu hoạch bầu. Muốn gặp thì xuống nhà riêng, thỉnh thoảng có công việc ông ấy mới lên xã".
Để gặp ông Phạm Đình Thùy, KNV xã Suối Cát, tôi phải vào sát chân núi Bà Đen, cách trụ sở ủy ban xã 5 km. Ông Thuỳ bảo: "Hôm nay anh gặp được là may đấy, chứ mấy hôm rồi tôi phải vào làng dân tộc Raglai hướng dẫn bà con trồng lúa nước. Việc bề bộn, làm hết việc ở xã, tôi phải tranh thủ về cho lợn ăn , bởi cuộc sống của gia đình trông cả vào trang trại này. Làm KNV mỗi tháng chỉ được 830.000 đồng, ngoài ra không còn khoản thu nào khác".
Thu nhập chẳng là bao, nhưng trong hợp đồng với Trung tâm Khuyến nông- Khuyến ngư Khánh Hoà thì công việc của ông rất nhiều, như thu thập thông tin, theo dõi dịch bệnh, tuyên truyền, hướng dẫn nông dân áp dụng TBKT, giới thiệu hộ đủ điều kiện để xây dựng mô hình trình diễn…
Diện tích xã Suối Cát rất lớn, có 3 thôn là đồng bào dân tộc Raglai nên công tác khuyến nông của ông Thuỳ càng vất vả hơn, vì trình độ thâm canh của bà con còn thấp, đi lại khó khăn. Để xây dựng mô hình trình diễn lúa nước, ông Thuỳ đã phải ngày đêm bám đồng, bám ruộng, cầm tay chỉ việc...
Được đánh giá là người xây dựng câu lạc bộ khuyến nông mạnh, ông Trần Nho, KNV xã Ninh Quang, TX Ninh Hoà (Khánh Hòa) có công rất lớn trong việc đưa TBKT vào SX. Ông Nho tâm đắc nhất là việc đã giúp người dân thay dần tập quán canh tác, từ sạ lúa với mật độ rất dày (200- 240 kg lúa giống/ha) xuống còn 120- 140 kg/ha. Nhờ đó mà chi phí SX giảm, dịch bệnh cũng ít hơn. Để có được kết quả này, ông Nho đã trường kỳ làm mô hình sạ thưa hết vụ này qua vụ khác để bà con nhìn thấy cái lợi mới chuyển đổi.
CLB khuyến nông xã do ông Nho vận động thành lập với 50 thành viên tham gia và duy trì hoạt động được 11 năm nay. CLB hoạt động rất hiệu quả. Hàng tháng ông đều tổ chức sinh hoạt để phổ biến TBKT, giống cây, con mới. Các thành viên cũng trao đổi việc SX để đúc rút kinh nghiệm.
Ông Nho nói: Tôi tham gia KNV đã 14 năm, nay quá tuổi lục tuần, lòng nhiệt huyết còn, nhưng trình độ có hạn; nhiều khi không lĩnh hội hết được TBKT về phổ biến lại cho bà con. Giờ rất muốn nghỉ làm khuyến nông, nhưng xã chưa tìm được người thay, lớp trẻ thì chẳng ai chịu làm. Thử hỏi với khoản thu nhập mỗi tháng chưa được 1 triệu đồng, trong khi mỗi công lao động phổ thông từ 100.000- 150.000 đồng/ngày, làm sao thu hút được lớp trẻ vào làm?
Đến cuối năm 2011, tỉnh Khánh Hoà có 119 KNVCS, 36 CLB khuyến nông. Do thu nhập bèo bọt nên đa số các KNV đều là cán bộ HTXNN hoặc cán bộ xã kiêm nhiệm. Theo ông Hồ Mộng Hùng, Phó Chủ nhiệm HTXNN Diên Phú (huyện Diên Khánh) kiêm KNVCS thì cán bộ nông nghiệp xã kiêm nhiệm KVN có nhiều thuận lợi. Đây là những người có kiến thức chuyên môn, nói được bà con nghe. Tuy nhiên ông Đào Đình Cương, Trung tâm KN- KN tỉnh Khánh Hoà thì cán bộ kiêm nhiệm cũng có mặt trái, bởi bận công việc nên sao nhãng khuyến nông.
Cũng theo ông Cương, đa số các KNV ở Khánh Hoà trình độ thấp, không được đào tạo qua trường lớp; KNVCS có trình độ văn hoá cấp 3 chiếm 46%, còn lại mới học hết phổ thông cơ sở. Đặc biệt ở các xã miền núi trình độ KNV rất hạn chế. Do KNV không được đào tạo qua trường lớp nên tiêu chí ký hợp đồng của Trung tâm KN- KN Khánh Hoà chủ yếu dựa vào năng lực các hộ SX giỏi và người có kinh nghiệm trong hoạt động khuyến nông.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ khuyến nông, mới đây UBND tỉnh Khánh Hoà đã quy định: KNV, CTV khuyến nông phải tốt nghiệp THPT trở lên đối với các xã, thôn đồng bằng, tốt nghiệp THCS đối với xã thôn miền núi.
Cầm tay chỉ việc
Theo chân các cán bộ KNVCS thuộc địa bàn huyện Thống Nhất (Đồng Nai) đến thăm các mô hình mới được hỗ trợ chuyển giao TBKT, chúng tôi được chứng kiến hàng loạt những khu vườn ca cao, tiêu, điều… đang phát triển tốt, quy mô SX bài bản. Anh Nguyễn Văn Bộ, KNV kiêm PCT Hội Nông dân xã Hưng Lộc vui vẻ tâm sự: “Làm cán bộ khuyến nông cơ sở, điều quan trọng nhất là phải tâm huyết với nghề. Bởi hiện nay chế độ, phụ cấp dành cho cán bộ KNV ở nhiều địa phương còn thấp. Nếu không yêu nghề thì khó lòng yên tâm công tác. Điều chúng tôi mong muốn nhất là chuyển giao TBKT cho bà con áp dụng vào thực tế thành công".
Theo anh Bộ, thường đội ngũ KNV trong huyện đều là người kiêm nhiệm thêm công việc nên bản thân mỗi KNV đều phải rất nỗ lực, tích cực trong quá trình “tác nghiệp” mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Thực tế ghi nhận từ đội ngũ KNV ở Thống Nhất, họ đã được tham gia các lớp tập huấn khuyến nông, tham quan học tập mô hình trong, ngoài tỉnh; đồng thời cùng cán bộ kỹ thuật khuyến nông tỉnh, huyện chỉ đạo thực hiện các mô hình khuyến nông lâm ngư triển khai ở địa phương mình phụ trách.
Qua các buổi tập huấn kỹ thuật, nhiều hộ gia đình đã từ bỏ được tập quán cũ, dần dần hình thành được những mô hình vườn cây, trang trại quy mô lớn. Tuy nhiên, việc “cùng nông dân ra vườn” cũng có bất cập. Cụ thể theo phản ánh của một số nhà vườn địa phương, do sự "không cân bằng" giữa kiến thức của KNV với kinh nghiệm SX truyền thống của bà con nhà vườn, nên nhiều khi đôi bên không đồng nhất quan điểm.
Có đợt tập huấn chuyên đề kỹ thuật trồng thâm canh ca cao, nhiều nhà vườn yêu cầu phải mời được các chuyên gia, hay các nhà khoa học đầu ngành thì mới hào hứng tham dự. Lý giải điều này, anh Lộc Văn Quang, KNV xã Bàu Hàm 2 (Thống Nhất) chia sẻ: “Suy nghĩ của các nhà vườn như vậy cũng rất thực tế, vì cây ca cao hiện vẫn là loại cây trồng mới mang lại hiệu quả cao. Do vậy, mọi thông tin đều rất nhạy cảm, đối với bản thân mỗi KNV không phải lĩnh vực gì cũng giỏi để tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật nên cũng rất thông cảm với bà con".
Theo anh Quang, tham gia công tác khuyến nông từ năm 2003 đến nay không ít lần anh gặp phải những “yêu sách” khó tính của người dân. Tuy nhiên, anh cũng không ngại học hỏi thêm và sẵn sàng chia sẻ cùng bà con bằng tất cả những kinh nghiệm tích lũy của mình. "Mặc dù chỉ nhận được khoản trợ cấp ít ỏi, chi phí xăng xe đi lại cũng không đủ, nên bản thân tôi đã nhiều lần mạnh dạn đề xuất về Trạm Khuyến nông huyện tăng cường thêm lực lượng về hỗ trợ; nhất là vào mùa thời vụ nhiều việc", anh Quang nói.
Ông Phạm Văn Lê, Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Thống Nhất (Đồng Nai) cho biết: Toàn huyện có 10 xã, với 20.950 ha đất SX; mỗi xã có một KNV phụ trách, tỷ lệ bình quân khoảng 16.000- 17.000 người/KNV. Thực tế ở một số địa bàn xã lớn phải cần 2 KNV mới đảm trách tốt khối lượng công việc. Nhưng nguồn kinh phí trợ cấp còn hạn chế nên phải chọn giải pháp tăng cường điều động KNV hỗ trợ những địa phương vào mùa vụ. |
Theo báo NNVN