Tọa đàm nhằm đánh giá vai trò của hệ thống khuyến nông cơ sở và các hợp tác xã trong quá trình thực hiện Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030” (sau đây gọi tắt là Đề án). Tọa đàm thu hút sự tham dự của gần 150 đại biểu, bao gồm đại diện Trung tâm Khuyến nông quốc gia, Cục Kinh tế Hợp tác và Phát triển nông thôn (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Trà Vinh; các chuyên gia, nhà khoa học, doanh nghiệp; lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông và các hợp tác xã nông nghiệp từ 12 tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.

 

Ông Hoàng Văn Hồng - Phó giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia, bà Huỳnh Kim Định - Phó cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn và ông Lê Văn Đông - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Trà Vinh đồng chủ trì tọa đàm.

leftcenterrightdel
 Toàn cảnh tọa đàm

 

Theo báo cáo tại tọa đàm, sau 01 năm triển khai Đề án, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã phối hợp với các địa phương cùng các chuyên gia quốc tế để xây dựng hệ thống đo đạc, báo cáo và thẩm định phát thải (MRV) phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế. Đã xây dựng và ban hành Quy trình và Sổ tay hướng dẫn “Quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long” thực hiện Đề án. Đã triển khai 07 mô hình thí điểm cấp trung ương tại 05 tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp và Cần Thơ.

 

Kết quả bước đầu cho thấy mô hình canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải mang lại những lợi ích rõ rệt cả về kinh tế lẫn môi trường. Các mô hình giúp giảm chi phí sản xuất từ 8,2 - 24,2% nhờ giảm 30 - 50% lượng giống, tiết kiệm 30 - 70kg phân bón/ha, giảm 01 - 04 lần phun thuốc bảo vệ thực vật và cắt giảm 30 - 40% lượng nước tưới. Đồng thời, năng suất tăng 2,4 - 7,0%, giúp nâng cao thu nhập của nông dân thêm 12 - 50%, tương đương lợi nhuận tăng từ 4 - 7,6 triệu đồng/ha so với canh tác truyền thống. Mô hình đã góp phần giảm phát thải khí nhà kính, với mức giảm trung bình 02 - 12 tấn CO₂ tương đương/ha. Toàn bộ sản lượng lúa thu hoạch đều được các doanh nghiệp cam kết bao tiêu với giá cao hơn 200 - 300 đồng/kg lúa, tạo động lực mạnh mẽ cho nông dân tham gia.

 

Trong triển khai Đề án một triệu héc-ta lúa chất lượng cao, lực lượng khuyến nông cộng đồng đã và đang đảm nhiệm các vai trò then chốt, là mắt xích quan trọng trong việc hiện thực hóa các mục tiêu của Đề án. Khuyến nông cộng đồng đã tham gia hướng dẫn người dân áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; hỗ trợ tư vấn thành lập, kiện toàn, nâng cao năng lực quản lý cho các tổ hợp tác, hợp tác xã; đồng hành cùng chính quyền cấp xã xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị. Đồng thời, khuyến nông cộng đồng con là cầu nối giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp trong ký kết hợp đồng bao tiêu, kết nối đầu ra - đầu vào; tư vấn chính sách và truyền thông nâng cao nhận thức của cộng đồng về sản xuất lúa gạo phát thải thấp. Khuyến nông cộng đồng, với sự am hiểu địa bàn, gần gũi với người dân và khả năng vận động linh hoạt, là lực lượng duy nhất có thể đảm nhiệm vai trò hỗ trợ kỹ thuật - tổ chức sản xuất - liên kết thị trường một cách xuyên suốt tại cấp cơ sở.

leftcenterrightdel
Trong triển khai Đề án, lực lượng khuyến nông cộng đồng đã và đang đảm nhiệm các vai trò then chốt (trong ảnh: Cán bộ khuyến nông hướng dẫn kỹ thuật ủ rơm làm thức ăn cho trâu bò cho người dân)

 

Theo báo cáo của các địa phương, hiện có 1.381 Hợp tác xã, tổ hợp tác đăng ký tham gia Đề án đến năm 2030, tăng 756 Hợp tác xã, tổ hợp tác so với giai đoạn 1 (2024-2025). Hợp tác xã, tổ hợp tác giúp hợp nhất các hộ nông dân nhỏ lẻ thành tổ chức sản xuất lớn, từ đó hình thành vùng sản xuất lúa chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu; áp dụng kỹ thuật canh tác tiên tiến như 3 giảm - 3 tăng, 1 phải - 5 giảm, 2 phải - 6 giảm, canh tác lúa thông minh; giảm chi phí đầu vào nhờ mua chung giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật với giá ưu đãi; giảm rủi ro phá vỡ hợp đồng và kế hoạch sản xuất do canh tác tự phát; tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm lúa gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.

 

Bên cạnh đó, Hợp tác xã, tổ hợp tác còn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mô hình cánh đồng lớn, giúp sản xuất lúa đạt tiêu chuẩn chất lượng cao và đồng đều, qua đó cải thiện hiệu quả sản xuất và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường nhờ tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên đất và nước.

 

Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho thấy vai trò của các tổ chức này vẫn chưa được phát huy đầy đủ. Lực lượng khuyến nông cộng đồng phần lớn chưa có cơ chế công nhận chính thức, thiếu cơ chế pháp lý rõ ràng; thiếu chính sách hỗ trợ và đãi ngộ cho thành viên khuyến nông cộng đồng. Các Hợp tác xã nông nghiệp và tổ hợp tác vẫn gặp nhiều khó khăn về năng lực quản trị, cơ sở vật chất, tiếp cận vốn và liên kết thị trường.

 

Tại buổi tọa đàm, các đại biểu tích cực thảo luận, nêu bật vai trò của tổ chức khuyến nông cộng đồng, hợp tác xã, tổ hợp tác trong triển khai thực hiện Đề án 1 triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp, kiến nghị có pháp nhân đối với tổ khuyến nông cộng đồng, sớm có chính sách tín dụng ưu đãi, quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã,…

 

Theo ông Hoàng Văn Hồng – Phó giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia, trong thời gian tới, để triển khai Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao hiệu quả, yếu tố then chốt là phải tiếp tục đào tạo nâng cao năng lực cho các tổ khuyến nông cộng đồng, hợp tác xã và tổ hợp tác. Các khóa đào tạo chuyên sâu về quy trình kỹ thuật canh tác giảm phát thải, như sạ cụm, sạ hàng, sạ bằng drone, tưới ngập khô xen kẽ (AWD) và áp dụng mô hình canh tác lúa bền vững cần được triển khai liên tục. Đồng thời, việc đào tạo kỹ năng quản lý chuỗi giá trị và kết nối thị trường cũng rất quan trọng để đảm bảo nông sản được tiêu thụ ổn định, từ đó gia tăng thu nhập cho nông dân.

leftcenterrightdel
Để triển khai Đề án hiệu quả cần tiếp tục đào tạo nâng cao năng lực cho các tổ khuyến nông cộng đồng, hợp tác xã và tổ hợp tác.

 

Các địa phương cần tăng cường hỗ trợ cho tổ khuyến nông cộng đồng,  Hợp tác xã, tổ hợp tác xây dựng và củng cố liên kết chuỗi giá trị bền vững. Song song đó, cần có một khung chính sách rõ ràng và các cơ chế hỗ trợ phù hợp. Việc xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý rõ ràng về vai trò, tư cách pháp nhân của các tổ chức khuyến nông cộng đồng,  Hợp tác xã, tổ hợp tác là hết sức cần thiết để họ có thể thực hiện các hợp đồng hợp pháp và quản lý hoạt động của mình hiệu quả. Chính sách khuyến khích tham gia vào Đề án, thông qua các hình thức hỗ trợ tài chính, ưu đãi tín dụng, hay khen thưởng cho các mô hình hoạt động tốt, sẽ giúp nâng cao động lực và sự tham gia của các bên liên quan. Bên cạnh đó, việc tạo ra các cơ chế huy động vốn từ nguồn ngân sách nhà nước và doanh nghiệp cũng sẽ giúp đảm bảo nguồn lực bền vững cho hoạt động của các tổ chức này.

 

Tại buổi tọa đàm, nhiều đại biểu cho rằng, chuyển đổi số là yếu tố quan trọng giúp tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát và phát triển chuỗi giá trị trong Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý và giám sát sản xuất lúa, từ việc sử dụng phần mềm quản lý hoạt động khuyến nông đến giám sát phát thải khí nhà kính (MRV) sẽ giúp tổ khuyến nông cộng đồng, hợp tác xã, tổ hợp tác theo dõi và điều chỉnh quy trình sản xuất một cách chính xác.

 

Các giải pháp này không chỉ giúp các tổ chức khuyến nông cộng đồng, hợp tác xã, tổ hợp tác thực hiện tốt Đề án 1 triệu ha lúa mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành nông nghiệp Việt Nam, góp phần nâng cao thu nhập cho nông dân và bảo vệ môi trường.

 

Trước đó, buổi chiều ngày 17/4/2025, các đại biểu tham quan mô hình canh tác lúa phát thải thấp tại HTX Nông nghiệp Phước Hảo, ấp Hòa Hảo, xã Phước Hảo, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.

leftcenterrightdel
 Các đại biểu tham quan mô hình thí điểm canh tác lúa phát thải thấp ở HTX Nông nghiệp Phước Hảo

 

Ánh Nguyệt

Trung tâm Khuyến nông quốc gia

Xem thêm tin, bài về hoạt động trên các báo:

Báo Nhân dân

Báo Nông nghiệp Việt Nam

Báo Dân Việt

Cổng Thông tin điện tử Trà Vinh

Thông tấn xã Việt Nam: Bài 1, Bài 2