Đề án phát triển bền vững một triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030 (Đề án) được phê duyệt với mục tiêu đến năm 2030 diện tích canh tác vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp đạt 1 triệu ha; lượng gạo mang thương hiệu chất lượng cao, phát thải thấp chiếm hơn 20% tổng lượng gạo xuất khẩu của toàn vùng chuyên canh…
Nhằm góp phần thực hiện những mục tiêu của Đề án, Cục Trồng trọt (cũ), với sự hỗ trợ của Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế (IRRI) và một số chuyên gia trong nước đã xây dựng “Quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long” áp dụng cho vùng sản xuất trong Đề án. Quy trình này tích hợp những kỹ thuật phù hợp nhất từ các quy trình liên quan đã được ban hành; các kết quả nghiên cứu trong và ngoài nước, các mô hình thành công trong thực tiễn và kiến thức chuyên gia, kinh nghiệm từ các địa phương.
Trong kế hoạch thực hiện các mô hình thí điểm triển khai Đề án có nội dung triển khai, xây dựng các mô hình theo quy trình kỹ thuật của Cục Trồng trọt trong 3 vụ liên tiếp: Hè thu 2024 - Thu đông 2024 - Đông Xuân 2024-2025 hoặc Thu đông 2024 - Đông Xuân 2024- 2025 - Hè thu 2025.
Đến nay tính cả diện tích thực hiện mô hình và diện tích nhân rộng, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã thực hiện 354.839ha chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh, đạt 197% mục tiêu đề ra. 100% diện tích áp dụng ít nhất 1 tiêu chí trong Quy trình do Cục Trồng Trọt ban hành.
Tại hội nghị tổng kết mô hình thí điểm sản xuất lúa chuyên canh chất lượng cao, phát thải thấp vụ Hè Thu 2025 vừa qua, Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết từ thực tế sản xuất, ý kiến các chuyên gia, Cục đã dự thảo những nội dung cần bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện Quy trình. Theo đó, một số điểm nhấn sẽ được đưa vào Quy trình mới có thể kể đến gồm:
Sau khi san ủi đất dựa theo mực nước hoặc san phẳng ứng dụng laser, dự thảo Quy trình mới hướng dẫn chi tiết việc tiến hành rút nước khỏi mặt ruộng từ 6 đến 12 giờ trước khi vận hành máy sạ hàng/cụm. Khuyến cáo rút nước vào ban đêm và sạ vào sáng hôm sau để đảm bảo mặt ruộng có độ ẩm phù hợp (không quá dẻo, không khô nứt) cho máy vận hành hiệu quả và hạt giống tiếp xúc tốt với đất. Đối với đất phèn, mặn không cày, xới sâu quá 15 cm để tránh bị xì phèn hoặc nhiễm mặn từ tầng đáy.
Về phương pháp gieo sạ, ngoài phương pháp sạ hàng, sạ cụm, dự thảo quy trình bổ sung nội dung có thể áp dụng công nghệ sạ bằng drones, nhưng cần chú ý điều chỉnh độ chính xác và lượng giống sạ không quá 70 kg/ha.
Với công tác quản lý nước sau khi gieo cấy, quy trình chỉnh sửa chi tiết như sau: Từ 1 - 7 ngày sau sạ: giữ ruộng đủ ẩm; Từ 12 - 25 ngày sau sạ: có thể rút nước lần 1 trong giai đoạn này (nước không ngập mặt ruộng trong thời gian ít nhất 3 ngày liên tục); Từ 28 – 50 ngày sau sạ: có thể rút nước lần 2 trong giai đoạn này (nước không ngập mặt ruộng trong thời gian ít nhất 3 ngày liên tục); Rút nước trước khi thu hoạch từ 7 đến 15 ngày.
Trường hợp rút nước 1 lần giữa vụ do hạn chế điều kiện cơ sở hạ tầng và ở vùng nước ngập thì áp dung: Giai đoạn từ 28 - 50 ngày sau sạ có thể rút nước (nước không ngập mặt ruộng trong thời gian ít nhất 3 ngày liên tục); Rút nước trước khi thu hoạch từ 7 đến 15 ngày.
Dự thảo quy trình mới bỏ quy định phải phân tích đất định kỳ 5 năm, xác định yếu tố hạn chế và xây dựng công thức bón phân phù hợp cho cây lúa theo mùa vụ, vùng đặc thù. Việc bón phân lót tùy điều kiện thổ nhưỡng nên bón lót phân hữu cơ, vôi và lân để đảm bảo chất lượng dinh dưỡng đất cho canh tác lúa. Riêng đất chua nhiều và đất phèn, dành 30% phân lân cho bón thúc lần 1. Thời điểm thu hoạch là khi lúa chín khoảng 85 - 90% hoặc tham khảo thời gian sinh trưởng của từng loại giống (ngắn ngày: 90–105 ngày, trung ngày: 106–120 ngày, dài ngày: trên 120 ngày).
    |
 |
Quy trình sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp tiếp tục được chỉnh sửa, hoàn thiện phù hợp với thực tiễn |
Điểm đặc biệt là trong dự thảo quy trình đã đề cập đến các công nghệ bảo quản lúa phù hợp cho ĐBSCL gồm: Bảo quản trong kho có hệ thống thông khí cưỡng bức, giúp điều hòa nhiệt – ẩm trong khối lúa; Bảo quản kín trong bao, kết hợp đặt trên kệ gỗ hoặc pallet để tránh ẩm từ nền đất; Bảo quản trong silo, có kiểm soát nhiệt độ và độ ẩm, phù hợp với quy mô lớn và hệ thống logistics hiện đại; Bảo quản lạnh được khuyến khích áp dụng đối với lúa giống hoặc các lô hàng chất lượng cao xuất khẩu. Nhiệt độ kho lạnh nên duy trì ổn định từ 15–18°C, độ ẩm không khí tương đối khoảng 60–65%. Biện pháp này giúp ức chế hoạt động của côn trùng, vi sinh vật và kéo dài thời gian bảo quản từ 6–12 tháng mà không cần xông hơi hoặc dùng hóa chất. Khuyến khích áp dụng công nghệ số trong giám sát và quản lý kho bảo quản như: cảm biến đo nhiệt – ẩm tự động, cảnh báo sớm ruồi mọt, sâu mọt, nhật ký bảo quản số hóa và truy xuất nguồn gốc sau thu hoạch nhằm giảm thất thoát sau thu hoạch.
Đại diện Cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cho biết sẽ nhanh chóng hoàn thiện quy trình, ban hành để các vùng thực hiện Đề án có thể áp dụng.
BBT