Hiện nay và thách thức trong tương lai cho vùng ĐBSCL đối với sản xuất lúa là phải thích ứng với biến đổi khí hậu ngày càng rõ rệt và cường độ gia tăng, đồng thời sản xuất lúa lại là hoạt động gây phát thải khi nhà kính nhiều nhất trong nông nghiệp và thâm canh nhưng phải giảm chi phí sản xuất, đáp ứng an toàn thực phẩm, dinh dưỡng cho lúa gạo hàng hóa và tăng thu nhập, lợi nhuận cho người trồng lúa. Sản xuất lúa gạo phải thay đổi để phù hợp với thách thức mới này và duy trì hoạt động sản xuất hiệu quả hơn.

    Đề án “Phát triển bền vững một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng đồng bằng sông Cửu Long”  có ý nghĩa quan trọng trong định hướng phát triển ngành hàng lúa gạo;  Chuyển đổi phương thức canh tác lúa bền vững ở ĐBSCL, hình thành vùng nguyên liệu tập trung quy mô lớn ổn định lâu dài, đảm bảo chất lượng, quy trình sản xuất hiện đại, đồng bộ, đáp ứng mục tiêu nâng cao giá trị chuỗi sản xuất lúa gạo, cải thiện thu nhập cho người nông dân, đảm bảo an ninh lương thực và phục vụ chế biến, xuất khẩu gạo đạt hiệu quả cao, giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu..

    Để góp phần thực hiện Đề án, việc xây dựng các mô hình tiên phong là cực kỳ cần thiết. Một trong số đó là Dự án Khuyến nông Trung ương “Xây dựng mô hình canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu của Đồng bằng sông Cửu Long”, do Công ty cổ phần phân bón Bình Điền chủ trì thực hiện trong giai đoạn 2024-2025. Mục tiêu của dự án là áp dụng quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao và giảm phát thải, nhằm giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu quả kinh tế, tạo ra sản phẩm gạo phục vụ xuất khẩu và nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời, dự án còn hướng đến xây dựng và phát triển bền vững vùng nguyên liệu, liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp xuất khẩu.

    Quy mô dự án đã triển khai 12 mô hình cánh đồng lúa chất lượng cao, giảm phát thải tại các tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long (cũ) với tổng diện tích 600 ha, qua hai vụ lúa Đông Xuân 2024-2025 và Hè Thu 2025. Để đảm bảo tính nhất quán và đồng bộ, 100% các hộ nông dân tham gia mô hình đều đã được tập huấn kỹ thuật, tham dự các buổi hội thảo đầu bờ, hội thảo sơ kết và được hỗ trợ 50% chi phí vật tư sản xuất.

    Kết quả về năng suất và hiệu quả kinh tế đạt được rất khả quan: Vụ Đông Xuân 2024-2025, năng suất thực tế đạt từ 6,87 đến 10,28 tấn lúa tươi/ha, tăng trung bình 1,94 tấn/ha so với mục tiêu dự án. Vụ Hè Thu 2025, năng suất thực tế đạt từ 6,2 đến 8,85 tấn lúa tươi/ha, tăng trung bình 0,26 tấn/ha so với mục tiêu dự án. Việc năng suất tăng kết hợp với chi phí đầu tư giảm (từ 3 đến 5 triệu đồng/ha) đã giúp lợi nhuận từ các mô hình đạt mức rất cao. Cụ thể, lợi nhuận bình quân mô hình trong vụ Đông Xuân 2024-2025 là trên 38,5 triệu đồng/ha, tăng 19% so với đối chứng và trong vụ Hè Thu 2025 là hơn 25 triệu đồng/ha, tăng 26% so với đối chứng. Lợi nhuận tăng khoảng 6 đến 7 triệu đồng so với bên ngoài không thực hiện mô hình.

    Về giảm phát thải, dự án cũng ghi nhận những thành tựu ấn tượng. Với sự tham gia của Viện Môi trường Nông nghiệp và các đơn vị đo đạc MRV (đo lường, báo cáo và thẩm định), phát thải đã được đo cho toàn bộ 12 mô hình. Việc quản lý nước, rút nước thành công từ 2 đến 4 lần trong vụ thông qua quy trình ngập khô xen kẽ, đã giúp lúa ít bị sâu bệnh hơn rất nhiều. Nếu chỉ tính riêng lượng quản lý nước, phát thải trên mỗi hecta giảm tương đương trung bình 6 tấn CO2 quy đổi. So sánh với phát thải cơ sở, tổng hai vụ cho thấy mức giảm trung bình khoảng 10 tấn CO2/ha. Đây là một tín hiệu rất tốt, cho thấy người nông dân không chỉ quan tâm đến lợi nhuận kinh tế mà còn quan tâm đến môi trường, xã hội và vấn đề biến đổi khí hậu. Ngoài ra, công tác vận động bà con nông dân sau khi thu hoạch phải đem rơm rạ ra khỏi cánh đồng (để làm thức ăn cho bò hoặc làm phân ủ trồng hoa màu, cây ăn trái) đã được thực hiện tốt.

    Để nhân rộng mô hình, dự án đã thực hiện hơn 30 lớp tập huấn về kỹ thuật canh tác trong và ngoài mô hình với trên 1.300 lượt nông dân tham dự. Hơn 1.000 lượt nông dân đã dược tham gia hội thảo đầu bờ để đánh giá chính xác hiệu quả của dự án bằng "mắt thấy tai nghe". Đơn vị chủ trì cũng thực hiện 6 video tuyên truyền, in ấn và phát 4.850 sổ tay hướng dẫn quy trình canh tác, cùng hơn 100 tin bài và nhiều phóng sự đăng trên các trang báo và đài truyền hình trung ương và địa phương. Từ hiệu quả thực tế của mô hình, nông dân trong các hợp tác xã và vùng lân cận cũng mạnh dạn ứng dụng, giúp nhân rộng mô hình vượt xa mục tiêu dự án đề ra.

    Điều thành công nhất của dự án là đã tạo ra bước chuyển mình mạnh mẽ từ canh tác lúa theo tập quán truyền thống, vốn tồn đọng nhiều bất cập, sang canh tác lúa chất lượng cao, giảm phát thải, hướng đến phát triển bền vững. Những người nông dân trước đây thường có thói quen sạ dày, sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật thiếu cân đối, hoặc đốt rơm rạ để xử lý nhanh đồng ruộng gây ô nhiễm môi trường, thì nay đã hoàn toàn thay đổi cách thức và áp dụng quy trình kỹ thuật mới, tiên tiến, khoa học.

    Đến thời điểm này, có thể khẳng định rằng dự án canh tác lúa giảm phát thải đạt kết quả rất tốt, khi các chỉ số về năng suất, hiệu quả kinh tế, công tác tập huấn chuyển giao, cũng như các chỉ số về nâng cao giá trị hạt lúa (như dư lượng và giảm phát thải) đều đạt rất cao. Thành công của dự án không chỉ là câu chuyện về năng suất và lợi nhuận mà còn là minh chứng cho một con đường phát triển bền vững, hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Đây là nền tảng vững chắc để hạt gạo Việt Nam tiếp tục vươn xa, chinh phục những thị trường khó tính nhất, góp phần thúc đẩy thành công Đề án 1 triệu hecta lúa của Chính phủ đang triển khai.

BBT