Sau gần hai năm triển khai, các hoạt động khuyến nông và khuyến nông cộng đồng trong khuôn khổ Đề án đã tạo ra những tác động nổi bật cả về kinh tế, xã hội, môi trường và uy tín quốc gia.

    Công tác truyền thông và đào tạo đã tạo được sự đồng thuận và thống nhất nhận thức từ Trung ương đến địa phương, từ nông dân, hợp tác xã đến doanh nghiệp và cộng đồng quốc tế. Tư duy sản xuất của nông dân đã có sự chuyển biến rõ rệt, từ nhỏ lẻ, truyền thống sang tổ chức theo chuỗi giá trị, gắn với thị trường và định hướng giảm phát thải. Đã đăng tải trên 600 tin, bài và ảnh trên các báo trung ương, báo Ngành và địa phương; Xây dựng chuyên mục “Đề án một triệu héc-ta lúa chất lượng cao” trên báo Nông nghiệp và Môi trường và chuyên mục “Một triệu héc-ta chuyên canh lúa chất lượng cao” trên Trang web Khuyến nông Việt Nam, cung cấp gần 100 tin, bài, ảnh, phóng sự được đăng tải. Tổ chức 15 sự kiện khuyến nông (diễn đàn, toạ đàm, hội thảo, hội nghị) với sự tham gia 150 lượt tỉnh/thành, trên 3.000 đại biểu theo các chủ đề của Đề án. Xây dựng và phát hành bộ tài liệu, tờ rơi, tờ gấp, video/clip hướng dẫn quy trình kỹ thuật canh tác, quy trình thu gom xử lý rơm rạ; các nội dung, hoạt động cơ bản của Đề án; vai trò, nhiệm vụ của các tác nhân tham gia thực hiện, v.v... Biên soạn và phát hành bộ tài liệu hướng dẫn gồm 06 cuốn dành cho cán bộ khuyến nông và khuyến nông cộng đồng, làm cơ sở triển khai thống nhất kỹ thuật và phương pháp tổ chức thực hiện Đề án. Tổ chức lớp mẫu đào tạo giảng viên nguồn (ToT) và lớp tập huấn cho thành viên HTX, nông dân (1 lớp ToT, 45 lớp cho 1.350 nông dân). Phối hợp với Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế (IRRI), Công ty TNHH Bayer Việt Nam và các đối tác liên quan, tổ chức đào tạo tập huấn cho trên 4.000 nông dân, thành viên HTX tại các địa phương trong vùng Đề án.

    Sự hình thành và hoạt động hiệu quả của mạng lưới khuyến nông cộng đồng đã góp phần củng cố sức mạnh tập thể, tăng cường mối liên kết giữa nông dân - HTX - doanh nghiệp, thúc đẩy việc hình thành vùng nguyên liệu tập trung. Qua đó, khuyến nông trở thành lực lượng nòng cốt trong việc tổ chức sản xuất, không chỉ “chuyển giao kỹ thuật” mà còn là tác nhân thay đổi phương thức canh tác và quản lý cộng đồng nông thôn. Các tổ KNCĐ hoạt động đa dạng: Hướng dẫn kỹ thuật, tổ chức sản xuất theo mô hình HTX, tư vấn - kết nối thị trường, xây dựng vùng nguyên liệu, tổ chức liên kết tiêu thụ sản phẩm. Khẩu hiệu hành động “3 cùng” (cùng suy nghĩ - cùng hành động - cùng phát triển) đã tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa cán bộ KNCĐ và nông dân.

    Trung tâm Khuyến nông quốc gia đã phối hợp với Cục Trồng trọt và BVTV, Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế, Sở Nông nghiệp và Môi trường các địa phương và các đơn vị liên quan tham gia triển khai 7 mô hình thí điểm tại 5 tỉnh, thành phố Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp, Kiên Giang trong năm 2024 - 2025. Sau 3 vụ triển khai, các mô hình đã giảm chi phí sản xuất từ 8,2 - 24,2% so với mô hình đối chứng thông qua việc giảm 30 - 50% lượng giống, giảm 30 - 70 kg phân bón/ha, giảm 30 - 40% lượng nước tưới, giảm 1 - 4 lần phun thuốc bảo vệ thực vật. Các mô hình đều cho năng suất tăng 2,4 - 7,0%, thu nhập của nông dân tăng từ 12 - 50%, tương ứng 4,0 - 7,6 triệu đồng/ha so với đối chứng. Đã giảm phát thải khí nhà kính từ 2,0 - 12,0 tấn CO₂/ha so với phương pháp truyền thống. Khắc phục tối đa tình trạng đốt rơm rạ sau thu hoạch lúa, góp phần giảm thiểu ô nhiễm và bảo vệ môi trường.

    Nhằm khuyến cáo, nhân rộng các mô hình vào thực tiễn sản xuất, trong giai đoạn 2024 - 2025, Trung tâm Khuyến nông quốc gia đã tham mưu, trình Bộ phê duyệt 5 dự án khuyến nông trung ương về sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp phục vụ triển khai Đề án tại các tỉnh/thành ĐBSCL, tổng quy mô thực hiện 1.800 ha. Kết quả triển khai mô hình tại các địa phương: Năng suất cao hơn so với mô hình đối chứng từ 5 - 10%, hiệu quả kinh tế đều đạt > 15% so với ngoài mô hình. Diện tích nhân rộng sau khi kết thúc dự án đạt > 30% so với tổng quy mô được phê duyệt.

    Trong quá trình triển khai Đề án, Trung tâm Khuyến nông quốc gia và hệ thống khuyến nông cả nước đã phối hợp với các tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước xây dựng và hình thành “hệ sinh thái khuyến nông - doanh nghiệp”. Trong đó, đã phối hợp với Công ty Bayer, Bình Điền, Sài Gòn Kim Hồng, AHA... triển khai xây dựng các mô hình ứng dụng tổng hợp các giải pháp công nghệ (mô hình “Forward Farming - Nông nghiệp bền vững hướng tới tương lai”, mô hình “Canh tác lúa hữu cơ, phát thải thấp NeoRice”) nhằm cụ thể hóa các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm Đề án đặt ra. Phối hợp với Quỹ Thiện Tâm - Tập đoàn Vingroup triển khai hỗ trợ các HTX nguồn vốn vay ưu đãi (lãi suất 0% trong vòng 10 năm) để phát triển sản phẩm và mở rộng quy mô sản xuất. Phối hợp với các tổ chức, doanh nghiệp khác (Công ty Thanks Carbon, Bio Plant, Siromachi, Faeger, Hải Sơn, Đại Thành, VinaRice,...) trong việc giới thiệu chuyển giao sản phẩm, quy trình công nghệ, thiết bị công cụ hỗ trợ sản xuất phục vụ triển khai Đề án.

    Hoạt động tư vấn, xây dựng vùng nguyên liệu đạt nhiều kết quả, với sự tham gia của doanh nghiệp và cán bộ khuyến nông cơ sở, các địa phương tham gia Đề án đều đã hình thành vùng nguyên liệu sản xuất lúa gạo. Đặc biệt một số địa phương đã phối hợp với các doanh nghiệp lớn (Công ty CP Công nghệ cao Trung An, Tập đoàn Tân Long) xây dựng vùng nguyên liệu sản xuất lúa gạo tập trung quy mô lớn chuyên phục vụ xuất khẩu.

    Trong tháng 5/2025 Đề án đã xuất khẩu lô gạo đầu tiên, số lượng 500 tấn mang thương hiệu “Gạo Việt xanh, phát thải thấp” sang Nhật Bản - dấu mốc quan trọng khẳng định thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.

    Lực lượng cán bộ và khuyến nông địa phương đã phối hợp với Viện Môi trường nông nghiệp và các đơn vị có liên quan thực hiện bố trí thí nghiệm, đo đạc, thẩm định và báo cáo kết quả phát thải khí nhà kính tại 7 mô hình thí điểm của Bộ. Bên cạnh đó, các cán bộ còn tư vấn, kết nối và khuyến khích người nông dân sáng tạo trong thiết kế dụng cụ đo mực nước tự động, sử dụng drone để thu thập cơ sở dữ liệu, v.v...

    Như vậy, những kết quả sau hai năm thực hiện Đề án không chỉ thể hiện ở con số, mà quan trọng hơn là ở sự chuyển biến toàn diện: thay đổi nhận thức, nâng cao năng lực cộng đồng, cải thiện sinh kế, giảm phát thải, bảo vệ môi trường và nâng tầm thương hiệu gạo Việt Nam trên trường quốc tế.

GH