Dự án được triển khai với sự tài trợ của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), do Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam (VAAS) chủ trì, thực hiện trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2025. Điểm mô hình triển khai tại Ninh Bình được đích thân ông Qu Dongyu, Tổng giám đốc FAO ra ruộng đánh giá.

    Dự án được thực hiện với 3 giống lúa chất lượng cao gồm giống lúa lai 3 dòng An Nông 0818,  giống lúa thuần Đài Thơm 8 và TBR225. Ba giống lúa này được gieo trồng trong vụ Xuân và vụ Hè Thu - Mùa  năm 2025. Ở vụ Hè Thu - Mùa gồm cả để lúa chét sau khi thu hoạch vụ Xuân.

    Với mục tiêu hướng xây dựng mô hình sản xuất lúa theo hướng nông nghiệp tốt (GAP), trên cơ sở tăng cường ứng dụng cơ giới hóa trong canh tác lúa chét, góp phần thúc đẩy chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng bền vững, hiện đại và thân thiện môi trường, dự án được đánh giá thanh công.

    Tại tỉnh Ninh Bình, với quy mô 2 ha, gồm 7 hộ dân tham gia thực hiện, năng suất lúa An Nông 0818 đạt 69,45 tạ/ha ở vụ Xuân và 18,13 tạ/ha ở vụ lúa chét; giống TBR225 đạt 62,17 tạ/ha ở vụ Xuân và 14,7 tạ/ha ở vụ lúa chét. Tổng năng suất cả năm trong mô hình truyền thống lần lượt là 129,45 tạ/ha (An Nông 0818) và 116,17 tạ/ha (TBR225); mô hình có xen vụ lúa chét năng suất còn 87,58 tạ/ha và 76,87 tạ/ha.

    Tại tỉnh Thanh Hóa, với quy mô 2 ha, gồm 10 hộ dân tham gia thực hiện, năng suất lúa An Nông 0818 đạt 69,23 tạ/ha ở vụ Xuân và 22,04 tạ/ha ở vụ lúa chét; giống Đài Thơm 8 đạt 60,92 tạ/ha ở vụ Xuân và 15,61 tạ/ha ở vụ lúa chét. Tổng năng suất cả năm theo mô hình truyền thống lần lượt là 131,23 tạ/ha và 115,92 tạ/ha; mô hình có xen vụ lúa chét đạt 91,27 tạ/ha và 76,53 tạ/ha.

leftcenterrightdel
 Giống lúa An Nông 0818 cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao trong mô hình.

    Việc áp dụng mô hình một vụ chính và một vụ lúa chét đã giúp tiết kiệm lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế, đặc biệt khi nguồn nhân lực nông nghiệp hạn chế. Đối với vụ lúa chét, chi phí giống, làm đất và gieo cấy giảm hoàn toàn; thuốc bảo vệ thực vật và chăm sóc giảm khoảng 90%; phân bón giảm hơn 77%; thu hoạch giảm trên 33%. Nên mặc dù tổng năng suất cả năm giảm nhưng lợi nhuận thuần lại tăng mạnh: An Nông 0818 tăng 80-123%, TBR225 và Đài Thơm 8 tăng xấp xỉ 60% so với canh tác truyền thống. Đây là giải pháp hiệu quả, giúp nâng cao thu nhập nông dân.

    Ông Nguyễn Văn Thành, nông dân tham gia mô hình, chia sẻ: “Tham gia dự án này, chúng tôi học được nhiều kỹ thuật mới. Trước kia làm lúa chủ yếu theo kinh nghiệm, giờ được cán bộ hướng dẫn cách chăm sóc, bón phân, sử dụng máy móc hợp lý hơn nên năng suất tăng rõ rệt, tốn ít công mà hiệu quả cao. Bà con ai cũng phấn khởi, thấy mô hình thật sự thiết thực và giúp ích cho nông dân chúng tôi. Đặc biệt, chúng tôi đã đánh giá được giống lúa vừa cho năng suất, chất lượng, vừa có hiệu quả kinh tế cao trong cả hai vụ là giống An Nông 0818, để áp dụng vào các vụ sản xuất tới.”

    Tiến sĩ Trịnh Đức Toàn, Phó Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung Bộ  cho biết: “Không chỉ mang lại lợi ích kinh tế, mô hình còn cho thấy tác động tích cực đối với môi trường. Việc áp dụng quy trình canh tác lúa chét đã góp phần giảm lượng phân bón vô cơ và thuốc bảo vệ thực vật sử dụng trên đồng ruộng, đồng thời tiết kiệm được nguồn nước tưới. Nhờ đó, mô hình không những giảm thiểu phát thải khí nhà kính mà còn góp phần bảo vệ hệ sinh thái và cải thiện chất lượng đất canh tác. Điều này phù hợp với định hướng phát triển nông nghiệp xanh, bền vững, đáp ứng các yêu cầu về bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu trong giai đoạn hiện nay”.

 

“Kết quả của dự án là minh chứng cho hiệu quả hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức Quốc tế trong việc thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực thích ứng của ngành nông nghiệp trước biến đổi khí hậu, hướng tới mục tiêu phát triển nông nghiệp bền vững và có trách nhiệm.”

(Ông Tạ Hồng Lĩnh, Phó Trưởng ban Khoa học và Hợp tác Quốc tế, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam - VAAS)

 

Phan Anh Thế