Bên cạnh đó, vẫn có rất nhiều hộ dân tự sản xuất, tiêu thụ với quy mô nhỏ lẻ, điều kiện sản xuất chưa đảm bảo, các yếu tố kỹ thuật chưa được áp dụng tốt, đồng bộ trong các khâu sản xuất dẫn đến năng suất nấm chưa cao, chất lượng chưa tốt và hiệu quả sản xuất không cao, sản phẩm khó tiêu thụ…
Với nguồn nguyên liệu trồng nấm có sẵn và rất phong phú như rơm, rạ, mùn cưa, bã mía, thân cây gỗ, thân lõi bắp, bông phế thải… người nông dân có nghề sản xuất, việc sản xuất và tổ chức sản xuất nấm không phức tạp, nguồn vốn đầu tư không quá cao… tuy nhiên sản xuất nấm tại các vùng vẫn không có sự phát triển, thậm chí một số nơi còn bị mai một.
Từ năm 2013 - 2015, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia chủ trì thực hiện Dự án “Phát triển sản xuất nấm tập trung ở một số tỉnh phía Bắc” tại 8 tỉnh: Nam Định, Thái Bình, Hà Nam, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hải Phòng. Sau 3 năm triển khai, dự án đã tổ chức được 92 nhóm hộ sản xuất với 920 hộ tham gia thực hiện. Mỗi điểm trình diễn tổ chức nhóm gồm 10 hộ nông dân liên kết tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm với quy mô lớn (từ trên 50 tấn nguyên liệu trở lên), trong đó có một hộ nòng cốt/chủ chốt làm đầu mối liên hệ tiêu thụ.
Thông qua dự án, các nhóm hộ đã được chuyển giao, phổ biến những tiến bộ kỹ thuật tiên tiến, đồng bộ từ khâu tổ chức sản xuất, ủ nguyên liệu, hấp nguyên liệu, cấy giống, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản nấm. Các hộ nòng cốt thường xuyên truyền đạt, chia sẻ kinh nghiệm với các hộ khác trong nhóm liên kết sản xuất.
Tại các điểm triển khai thực hiện mô hình, dự án cũng đã tổ chức 56 lớp tập huấn cho gần 1.700 lượt hộ nông dân ngoài mô hình đến học tập. Sau các lớp tập huấn, đã có nhiều hộ dân xin được tham gia nhóm hộ vệ tinh góp vốn liên kết sản xuất, tiêu thụ hoặc tham gia góp công lao động… Một số hộ tiếp tục nghiên cứu, học hỏi, tìm tòi để học cách tự tổ chức sản xuất và cùng tham gia liên kết tiêu thụ sản phẩm. Trong quá trình triển khai, dự án đã tổ chức 24 hội thảo, hội nghị đầu bờ chia sẻ kết quả và kinh nghiệm thực hiện mô hình. Qua đó đã có nhiều hộ dân đến tìm hiểu, học cách tổ chức sản xuất, học hỏi kinh nghiệm sản xuất cũng như mở rộng mối liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Chủ nhiệm dự án và Trung tâm KNKNKN Thái Bình kiểm tra mô hình sản xuất nấm tập trung tại Phong Châu - Đông Hưng - Thái Bình, năm 2014
Mô hình sản xuất nấm tập trung đã đem lại hiệu quả kinh tế cao cho các hộ tham gia thực hiện. Tại tất cả các điểm sản xuất, các loại nấm đều có năng suất, sản lượng nấm vượt chội. Chất lượng nấm đạt tiêu chuẩn cao, với giá bán cao gấp 1,5 - 2,0 lần so trước kia. Nhờ vậy mà hiệu quả kinh tế gia tăng rất lớn. Với 1 tấn nguyên liệu sản xuất nấm, đã cho lãi suất bình quân 2,0 – 4,0 triệu đồng/tấn nguyên liệu đối với sản xuất nấm rơm; 6,0 – 8,0 triệu đồng/tấn nguyên liệu đối với sản xuất nấm sò; 5,0 – 6,0 triệu đồng/tấn nguyên liệu đối với nấm mỡ, nấm linh chi; 3,0 – 4,0 triệu đồng/tấn nguyên liệu đối với nấm mộc nhĩ.
Ngoài hiệu quả kinh tế, dự án đã đem lại các hiệu quả về xã hội và môi trường rõ nét. Phát triển sản xuất nấm, nhất là với quy mô lớn, tập trung đã giúp người nông dân chủ động được quy trình, chủ động về kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, gia tăng hiệu quả sản xuất; đồng thời tạo công ăn việc làm cho người lao động nông nhàn ở nông thôn. Bên cạnh đó, sản xuất tập trung, sản xuất mang tính hàng hóa là tiền đề để tạo sự phát triển, cạnh tranh trong sản xuất. Sản phẩm nấm đã đáp ứng nhu cầu của xã hội về sản phẩm nông nghiệp sạch, góp phần xóa đói giảm nghèo, làm giàu cho một bộ phận người dân nông thôn.
Sản xuất nấm góp phần gia tăng việc sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có, tận dụng nguyên liệu, phế phụ phẩm dư thừa sau thu hoạch một số loại cây trồng, nhất là rơm rạ mà người dân thường hay đem đốt, góp phần giảm phát thải khí nhà kính. Môi trường sản xuất nấm phải sạch kéo theo môi trường xã hội xung quanh vùng sản xuất cũng phải sạch, là sức lan tỏa, tuyên truyền cho việc sản xuất an toàn tại môi trường nông thôn.
Vũ Thị Thủy