Việc triển khai Đề án đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó hệ thống khuyến nông và khuyến nông cộng đồng giữ vai trò then chốt - là lực lượng trực tiếp đồng hành cùng nông dân, Hợp tác xã và doanh nghiệp trong việc tổ chức sản xuất, chuyển giao kỹ thuật, giảm phát thải và xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam.

    Kết quả sau gần 2 năm thực hiện cho thấy Đề án đã góp phần thay đổi nhận thức, nâng cao năng lực cộng đồng, cải thiện sinh kế, giảm phát thải, bảo vệ môi trường và nâng tầm thương hiệu gạo Việt Nam trên trường quốc tế.

    Theo báo cáo của Trung tâm Khuyến nông quốc gia, trong hai năm 2024 và 2025, Trung tâm phối hợp các địa phương và đơn vị triển khai 7 mô hình thí điểm chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Sau 3 vụ triển khai, các mô hình cho thấy giảm chi phí sản xuất từ 8,2 đến 24,2% so với mô hình đối chứng thông qua việc giảm 30 đến 50% lượng giống, 30 đến 70 kg phân bón/ha, 30 đến 40% lượng nước tưới, 1 đến 4 lần phun thuốc bảo vệ thực vật. Các mô hình năng suất tăng từ 2,4 đến 7,0%, thu nhập tăng 12 đến 50%, tương ứng 4 đến 7,6 triệu đồng/ha so với đối chứng; giảm phát thải khí nhà kính từ 2 đến 12,0 tấn Co2/ha và khắc phục tối đa tình trạng đốt rơm rạ sau thu hoạch, giảm thiểu ô nhiễm môi trường”.

    Vai trò của tổ khuyến nông cộng đồng thực hiện Đề án

    Ngay từ khi triển khai, các tổ khuyến nông cộng đồng đã thể hiện vai trò là lực lượng bám ruộng, bám dân và là mắt xích quan trọng hiện thực hóa các mục tiêu của Đề án. Khuyến nông cộng đồng đã và đang giúp chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, tư vấn hỗ trợ phát triển hợp tác xã, hướng dẫn nông dân tổ chức lại sản xuất, xây dựng vùng nguyên liệu, kết nối doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.

    Lực lượng này cũng hỗ trợ tư vấn thành lập, kiện toàn, nâng cao năng lực quản lý cho các tổ hợp tác, hợp tác xã; đồng hành cùng chính quyền cấp địa phương xây dựng vùng nguyên liệu đạt chuẩn, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị. Đồng thời, lực lượng này còn là cầu nối giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp trong ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm; phổ biến chính sách, hỗ trợ các thủ tục về truy xuất nguồn gốc, mã vùng trồng; tuyên truyền, nâng cao nhận thức của nhân dân về sản xuất lúa gạo phát thải thấp; hướng dẫn người dân, hợp tác xã áp dụng nhật ký điện tử, sử dụng phần mềm giám sát phát thải khí nhà kính và tiêu thụ sản phẩm qua sàn thương mại điện tử; phối hợp các hợp tác xã, tổ hợp tác và doanh nghiệp xây dựng các vùng chuyên canh lúa chất lượng cao, bảo đảm tiêu chuẩn xuất khẩu.

leftcenterrightdel
 Các tổ khuyến nông cộng đồng là lực lượng bám ruộng, bám dân

    Hơn 140 chuyên gia lập mạng lưới tư vấn Đề án 1 triệu héc-ta lúa

    Một trong những kết quả nổi bật hình thành từ Đề án còn là sự ra đời của mạng lưới tư vấn mang tính chất tự nguyện, quy tụ các chuyên gia, nhà nghiên cứu đầu ngành từ các viện, trường, doanh nghiệp và tổ chức quốc tế.

    Ông Lê Quốc Thanh - Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia cho biết, sau hơn 2 tháng thành lập, câu lạc bộ đã thu hút 143 chuyên gia đầu ngành tham gia tư vấn chuyên môn, kỹ thuật và đóng góp sáng kiến phục vụ Đề án. Thành viên câu lạc bộ là lực lượng quan trọng trong các hoạt động đào tạo, truyền thông, chia sẻ kinh nghiệm với hệ thống khuyến nông; tham gia biên soạn các tài liệu, tập huấn nông dân và đồng hành tại các hội thảo, hội nghị trong nước và quốc tế.

    Kể từ khi thành lập đến nay, câu lạc bộ đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông quốc gia xây dựng, in ấn 6.100 quyển sổ tay “Hướng dẫn khôi phục cây trồng ngập úng”; tổ chức nhiều hội thảo, tập huấn chuyên môn cho cán bộ khuyến nông, hợp tác xã và nông dân. Đồng thời, phối hợp với doanh nghiệp nghiên cứu thành công thiết bị đo mực nước, ẩm độ, nhiệt độ tự động…

    Trong thời gian tới, Trung tâm Khuyến nông quốc gia sẽ hoàn thiện và chính thức ban hành quy chế hoạt động của câu lạc bộ. Đồng thời ra mắt bộ nhận diện, xây dựng quỹ và tổng hợp bản tóm tắt lý lịch khoa học của các chuyên gia, công bố rộng rãi trên trang thông tin điện tử của Trung tâm. Đặc biệt, tăng cường hợp tác công – tư nhằm huy động các nguồn lực từ trí tuệ, kinh tế, tài chính, kinh nghiệm quốc tế… tích hợp vào Đề án.

    Công nghệ trong Đề án 1 triệu héc-ta lúa mang lại hiệu quả cho người dân

    ĐBSCL là vùng sản xuất lúa trọng điểm của cả nước, đóng góp hơn 90% lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam. Đề án đã chứng minh tính hiệu quả góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và thu nhập cho người dân, đóng góp quan trọng vào giảm phát thải khí nhà kính. Trong thực hiện Đề án, việc ứng dụng công nghệ trong canh tác và chuyển đổi số là xu thế tất yếu trong bối cảnh hiện nay góp phần đảm bảo tính minh bạch, kiểm soát và nâng cao chất lượng lúa gạo, hướng tới nền nông nghiệp trách nhiệm, bền vững.

    Hiện nay, công nghệ số đang được đưa vào đồng ruộng ở vùng ĐBSCL, giúp người dân quản lý, canh tác một cách hiệu quả, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm phát thải khí nhà kính. Việc ứng dụng và nhân rộng quy trình canh tác ướt khô xen kẽ, kỹ thuật sạ hàng, sạ cụm, ứng dụng cảm biến IoT, tưới nước thông minh, công nghệ đo đạc khí thải nhà kính và quản lý rơm rạ đã mang lại những lợi ích thiết thực cho người dân, giúp nông dân thuận tiện trong theo dõi quá trình canh tác lúa. Điều này đang chứng minh công nghệ đang thay đổi tập quán canh tác lúa ở ĐBSCL và hướng tới nền sản xuất trách nhiệm, bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thúy Hiên

Trung tâm Khuyến nông quốc gia