Để nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng thu nhập cho nông dân, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ của thị trường và hội nhập kinh tế; trong những năm qua huyện Thoại Sơn (An Giang) đã tập trung đẩy mạnh ứng dụng có hiệu quả chương trình 3 giảm 3 tăng, 1 phải 5 giảm, thực hiện chính sách xã hội hóa sản xuất giống cộng đồng, được đông đảo nông dân nhiệt tình hưởng ứng tham gia.
Chương trình 3 giảm 3 tăng (3G3T) còn được gọi là Quản lý dinh dưỡng và dịch hại tổng hợp được gọi tắt là IPM (Integrated Pest Management) là chương trình quản lý dịch hại dựa trên mối quan hệ của dinh dưỡng cây trồng và sự gây hại của dịch hại. 3G3T bao gồm: giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng thuốc trừ sâu bệnh, giảm lượng phân đạm; tăng năng suất lúa, tăng chất lượng lúa gạo, tăng hiệu quả kinh tế. Trong vụ thu đông 2014, 90 nông dân xã Vĩnh Phú (thuộc huyện Thoại Sơn – An Giang) được hỗ trợ tham gia thực hiện dự án “Áp dụng 3G3T và kỹ thuật trồng lúa SRI nhằm nâng cao hiệu quả và góp phần giảm phát thải khí nhà kính trong sản xuất lúa”, mục đích nhằm giảm bớt tình trạng sử dụng quá nhiều giống, phân vô cơ và thuốc hóa học trừ sâu bệnh; giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao thu nhập cho hộ gia đình và giảm ô nhiễm môi trường.
Ruộng áp dụng mô hình 3 giảm 3 tăng tại xã Vĩnh Phú, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
Giảm giống
Qua theo dõi nhiều năm cho thấy, mật độ sạ của bà con nông dân là quá dày, dao động từ 200 - 220 kg giống/ha. Khi áp dụng mô hình 3G3T, lượng giống giảm rất nhiều chỉ còn trung bình khoảng 80 - 120kg giống/ha, nhưng năng suất, hiệu quả vẫn đạt cao, giảm được chi phí sản xuất. Kết quả chỉ tiêu của mô hình cho thấy, nông dân thực hiện theo 3G3T đã mạnh dạn xuống giống với số lượng 100 kg/ha, đã giảm được từ 100 - 120 kg giống/ha và năng suất thu được vẫn cao hơn ruộng đối chứng là 0,3 tấn/ha. Theo GS.TS.Nguyễn Văn Luật, việc giảm số lượng giống gieo sạ không đơn thuần chỉ là một con số mà nó còn thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa các quần thể lúa trên đồng ruộng. Nếu sạ thưa, cây lúa sẽ hấp thụ ánh sáng tốt hơn, hạn chế dịch bệnh phát triển.
Giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật
Hậu quả của việc dùng không đúng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) không những gây thiệt hại về kinh tế mà còn gây nguy hại đến môi trường sinh thái, tạo sự bùng phát dịch hại còn nặng hơn. Để giảm thuốc bảo vệ thực vật chúng ta phải tìm hiểu và thực hiện các vấn đề cơ bản sau:
- Trên đồng ruộng thường xuyên có các loại thiên địch tồn tại và cùng phát triển với sâu hại, chúng sử dụng sâu hại làm thức ăn, do vậy chúng giữ cho mật độ sâu hại tồn tại dưới mức gây thiệt hại đến năng suất cây trồng.
- Trong từng giai đoạn sinh trưởng nhất định của lúa. Cây có khả năng đền bù thiệt hại do sâu bệnh gây ra. Nếu ta sử dụng cả 2 yếu tố trên thì sẽ hạn chế sử dụng nhiều thuốc trừ sâu bệnh.
- Không phun thuốc khi thiên địch đang có mặt trên đồng ruộng với số lượng (mật độ) đủ để hạn chế, tiêu diệt sâu hại.
- Không cần phun thuốc nếu tại thời kỳ sinh trưởng lúa, cây có khả năng bù đắp lại được những phần thiệt hại do sâu bệnh mà không ảnh hưởng đến năng suất.
Khuyến cáo: Để giảm lượng thuốc phòng trừ sâu bệnh, cần phải áp dụng kỹ thuật IPM trong suốt quá trình sinh trưởng của cây. Sử dụng các giống kháng sâu bệnh để giảm lượng thuốc. Không nên sử dụng thuốc trừ sâu đối với vụ đông xuân từ sau gieo đến 40 - 45 ngày, đối với vụ hè thu từ sau gieo đến 20 - 25 ngày. Chăm sóc, bón phân cân đối hợp lý giúp cây trồng sinh trưởng thuận lợi.
Giảm lượng đạm (bón phân theo nhu cầu sinh dưỡng của cây)
Đầu tư phân bón cho lúa là cần thiết để tăng hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, trong thực tế sản xuất không phải nơi nào nông dân cũng bón đạm cân đối cho cây lúa. Nhiều nơi nông dân bón quá nhiều đạm, sinh ra thừa và lãng phí, có nơi lại bón thiếu, không đủ nên không phát huy được năng suất của giống. Để trồng lúa có năng suất và có hiệu quả kinh tế cần đầu tư phân bón đúng, đủ và áp dụng bón đạm theo nhu cầu dinh dưỡng của cây. Mô hình 3G3T đã giúp nông dân tiết kiệm trên 200 ngàn đồng/1000 m2 cho chi phí đầu tư phân bón so với ruộng bón theo tập quán trước đây.
Để bón N đúng kỹ thuật, tăng hiệu quả sử dụng phân, cần tìm hiểu nhu cầu dinh dưỡng N của cây lúa. Trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển, lúa có 2 thời kỳ khủng hoảng N, thời kỳ đẻ nhánh và làm đòng. Tuy nhiên, khi bón N vào đất cho lúa, tùy theo điều kiện thời tiết và loại đất, cây lúa chỉ sử dụng được 40% lượng N, 20% N do đất giữ chặt và 40% N bị rửa trôi và bốc hơi.
Thời kỳ đẻ nhánh: Do lượng N bón thúc khi gieo đã hết, lúc này lúa cần nhiều năng lượng cung cấp cho sự phát triển của lá, thân, rễ. Do vậy, chúng ta phải cung cấp N thời kỳ này nhằm đảm bảo cho cây lúa đẻ đủ nhánh hữu hiệu/đơn vị diện tích để có năng suất cao.
Thời kỳ làm đòng: Cũng do lượng N bón trước đó đã hết, cần bổ dung dinh dưỡng để tiếp tục phát triển thân lá và đặc biệt là cung cấp năng lượng cho sự hình thành cơ quan sinh sản của cây lúa: bông, dé và hạt. Cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho thời kỳ này sẽ cho bông lúa to, hạt nẫy và chắc, đảm bảo cho năng suất cao.
Hiệu quả dự án 3 giảm 3 tăng
Hiệu quả xã hội và môi trường:
- Về xã hội: Giúp thay đổi nhận thức, tập quán sản xuất của người dân tham gia và nông dân vùng dự án.
- Tác động về môi trường: dự án đã trang bị cho nông dân các biện pháp kỹ thuật trong sản xuất lúa có tác dụng đến môi trường như thế nào (gieo sạ thưa dẫn tới giảm phát thải CO2; giảm lượng đạm làm giảm sâu bệnh, sử dụng ít thuốc BVTV; tưới ngập khô xen kẽ làm giảm phát thải khí Metan (CH4) ...
Khả năng mở rộng của mô hình:
Qua hội thảo đánh giá tổng kết mô hình, nông dân tham gia mô hình cũng như nông dân ngoài mô hình đánh giá cao hiệu quả của mô hình từ việc giảm lượng giống gieo sạ, bón phân, sử dụng thuốc BVTV hợp lý và giảm được số lần bơm tưới, giúp giảm giá thành sản xuất, mang lại lợi nhuận cao hơn so với cách sản xuất theo truyền thống. Từ đó, mô hình có khả năng được tiếp tục duy trì và nhân rộng sang các địa bàn lân cận trong xã cũng như trong toàn huyện.
Lữ Thị Kim Dung
Trạm Khuyến nông huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang