Mô hình được triển khai tại ao nuôi nằm ven sông Sa Lung và sông Hiếu của 2 hộ dân thuộc xã Vĩnh Thủy và Triệu Bình với tổng diện tích 0,5 ha, thả nuôi 1 triệu con giống tôm thẻ chân trắng, mật độ nuôi 200 con/m2. Trong đó, Trung tâm Khuyến nông tỉnh hỗ trợ 50% con giống, thức ăn công nghiệp và chế phẩm vi sinh. Tổng kinh phí hỗ trợ của mô hình là hơn 370 triệu đồng.
Hệ thống ao nuôi của mô hình bao gồm: ao chứa, ao lắng dùng để cấp nước cho toàn bộ hệ thống sau khi xử lý; ao ương được lót bạn và phủ lưới lan hoàn toàn, có hệ thống quạt, oxy đáy dùng để ương tôm giống trong giai đoạn đầu; ao nuôi thương phẩm có diện tích 0,25 ha được lót bạt và có mái che, có hệ thống quạt, oxy đáy đảm bảo nuôi với mật độ cao. Tôm giống được chọn lựa từ các cơ sở có uy tín, đảm bảo chất lượng và sạch bệnh. Sử dụng thức ăn công nghiệp có hàm lượng đạm trên 39%. Ngoài ra, trong suốt quá trình nuôi cán bộ kỹ thuật còn thường xuyên tập huấn, theo dõi, kiểm tra tình hình sinh trưởng của tôm để có giải pháp xử lý hiệu quả nhất.
    |
 |
Lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị kiểm tra mô hình |
Anh Trần Văn Dụng ở tại xã Vĩnh Thủy, một trong hai hộ thực hiện mô hình cho biết, tôm giống được thả vào ao ương (giai đoạn 1), sau 21 ngày thả nuôi khi tôm đạt kích cỡ khoảng 1.500 con/kg thì chuyển sang ao nuôi thương phẩm (giai đoạn 2). Đây là giai đoạn quyết định đến năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cuối vụ, do đó công tác chăm sóc, quản lý cần được thực hiện nghiêm ngặt, đồng bộ. Theo anh Dụng, để nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn, giảm công lao động và kiểm soát tốt hơn các yếu tố kỹ thuật, ở giai đoạn 2 này anh đã đưa vào sử dụng máy cho tôm ăn tự động với chu kỳ cho ăn 5 phút/lần, mỗi lần 10 giây. Kiểm tra lượng thức ăn hàng ngày thông qua nhá cho ăn để điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp. Mặt khác, do nuôi với mật độ cao, lượng thức ăn sử dụng nhiều nên hằng này phải sử dụng men vi sinh để ổn định các yếu tố môi trường; thay nước bằng hệ thống xi phông đáy, lượng nước thay khoảng 20%. “Đặc biệt, trong thời gian nuôi thời tiết diễn biến khá phức tạp, nắng nóng gay gắt kéo dài kết hợp với mưa giông vào cuối ngày nhưng nhờ nuôi theo quy trình 2 giai đoạn, chủ động được nguồn nước cấp, ao nuôi thương phẩm được che kín bằng lưới lan nên hạn chế được các biến động của môi trường, tôm nuôi vẫn sinh trưởng tốt”, anh Dụng cho hay.
Kết quả sau 4 tháng nuôi, tôm đạt kích cỡ bình quân từ 39 – 50 con/kg, tỉ lệ sống đạt trên 74%. Sản lượng thu hoạch đối với hộ thực hiện mô hình ở xã Vĩnh Thủy là trên 10,25 tấn, hộ thực hiện mô hình ở xã Triệu Bình là 7,4 tấn. Trừ chi phí, hộ thực hiện mô hình ở xã Vĩnh Thủy đạt lợi nhuận trên 850 triệu đồng, còn hộ thực hiện mô hình ở xã Triệu Bình đạt trên 500 triệu đồng.
    |
 |
Anh Dụng kiểm tra lượng thức ăn hàng ngày thông qua nhá cho ăn để điều chỉnh lượng thức ăn phù hợp |
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông tỉnh Phan Văn Phương thông tin, các vùng nuôi ven sông là nơi có điều kiện thủy lý, thủy hóa đặc thù, dễ bị ảnh hưởng bởi thời tiết, dịch bệnh. Trong khi ưu điểm của mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng 2 giai đoạn là giảm lượng chất thải trực tiếp ra môi trường, hạn chế ô nhiễm nguồn nước. Tách biệt quá trình ương và nuôi thương phẩm, qua đó dễ kiểm soát dịch bệnh, tăng tỷ lệ sống, rút ngắn thời gian nuôi ở ao thương phẩm. Tôm giống sau khi ương nuôi (giai đoạn 1) đã khỏe mạnh, kích cỡ đồng đều giúp hạn chế lây nhiễm chéo. Tôm nuôi có kích cỡ lớn, năng suất thu hoạch cao giúp nâng cao thu nhập cho hộ nuôi. Đặc biệt, thông qua mô hình đã góp phần nâng cao nhận thức của người dân về nuôi tôm an toàn sinh học, nuôi có trách nhiệm với môi trường, hướng đến phát triển bền vững.
Tuy nhiên, ông Phương cũng lưu ý, để nuôi tôm theo quy trình 2 giai đoạn thành công, người nuôi tôm cần tuân thủ nghiêm ngặt quy trình kỹ thuật, nhất là khâu cải tạo ao nuôi, ao lắng, ao chứa và nguồn nước đầu vào. Đây là khâu quyết định sự thành công của cả vụ nuôi. Nếu thực hiện không kỹ, sẽ dẫn đến phát sinh mầm bệnh, môi trường không ổn định, ảnh hưởng đến tăng trưởng của tôm ngay từ giai đoạn ương. Do thả nuôi với mật độ cao, thời tiết không ổn định nên định kỳ cần sử dụng chế phẩm sinh học, khoáng chất, men tiêu hóa để ổn định môi trường, giúp tôm nuôi sinh trưởng tốt. Duy trì việc xi phông đáy, thay nước và đo các chỉ số môi trường hằng ngày để phát hiện và xử lý kịp thời các biến động bất lợi.
“Để nuôi tôm thành công, người nuôi tôm cần được đào tạo kỹ thuật bài bản, biết vận hành các thiết bị tự động, xử lý môi trường và quản lý dịch bệnh. Đặc biệt, phải có ý thức tuân thủ quy trình, không làm theo kinh nghiệm cũ một cách máy móc, sẵn sàng cập nhật kiến thức mới”, ông Phương nhấn mạnh.
Lan Anh – Trà Lý
Trung tâm Khuyến nông Quảng Trị