Tham dự tọa đàm có đại diện lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, đại diện Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Lâm nghiệp, Tổ chức nghiên cứu Nông Lâm Quốc tế (ICRAF), đại diện lãnh đạo Sở Nông nghiệp và môi trường Hà Nội và các đơn vị trực thuộc, đại diện Vườn Quốc gia Cúc Phương, Vườn Quốc gia Xuân Thủy, Vườn Quốc gia Tam Đảo, Vườn quốc gia Ba Vì cùng các nhà khoa học, cán bộ kỹ thuật, doanh nghiệp, HTX và đại diện cộng đồng dân cư vùng đệm nhiều địa phương. Đây là sự kiện chuyên đề có ý nghĩa thiết thực trong bối cảnh Việt Nam đẩy mạnh mục tiêu phát triển nông nghiệp sinh thái, kinh tế tuần hoàn và phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.

    Buổi sáng, đại biểu được tham quan mô hình trồng rừng đa tầng bền vững tại xã Ba Vì – mô hình trồng cây dược liệu dưới tán nhằm tăng năng suất sinh thái, giảm xói mòn và tạo thu nhập ổn định cho người dân. Buổi chiều, Tọa đàm diễn ra trong không khí cởi mở, thẳng thắn và giàu tính thực tiễn, xoay quanh các nội dung: kết quả bước đầu kết nối bảo tồn – sinh kế; các mô hình sinh kế vùng đệm hiệu quả; vai trò của cộng đồng và khuyến nông trong giai đoạn mới.

leftcenterrightdel
 Toàn cảnh tọa đàm

    Bảo tồn rừng gắn với sinh kế – hướng đi tất yếu của phát triển bền vững

     Theo báo cáo đề dẫn của Trung tâm Khuyến nông quốc gia, Việt Nam hiện có 176 khu rừng đặc dụng, trong đó gồm 34 Vườn quốc gia, 56 Khu dự trữ thiên nhiên, 14 Khu bảo tồn loài - sinh cảnh, 54 Khu bảo vệ cảnh quan và 9 Khu rừng nghiên cứu, thực nghiệm khoa học, với tổng diện tích trên 2,37 triệu ha, chiếm khoảng 7,2% diện tích đất tự nhiên cả nước. Hàng triệu người dân – phần lớn là đồng bào dân tộc thiểu số – sinh sống trong vùng đệm các khu rừng đặc dụng và vườn quốc gia. Đây vừa là “lá phổi xanh” của quốc gia, vừa là không gian sinh kế của cộng đồng. Tuy nhiên, tại nhiều nơi, tỷ lệ hộ nghèo vùng đệm vẫn cao hơn mức trung bình cả nước 1,5–2 lần; sinh kế còn phụ thuộc vào khai thác lâm sản tự nhiên, gây áp lực lên tài nguyên rừng.

    Các đại biểu thống nhất nhận định: để bảo tồn bền vững, phải kết hợp giữa bảo vệ rừng và phát triển sinh kế, giúp người dân “sống được bằng rừng, giàu lên nhờ rừng”. Khi cộng đồng được tham gia và hưởng lợi công bằng, họ sẽ trở thành chủ thể tích cực của bảo tồn.

leftcenterrightdel
 Đại biểu trao đổi tại tọa đàm

    Nhiều mô hình sinh kế hiệu quả từ thực tiễn

    Tại tọa đàm, các đại biểu chia sẻ nhiều kinh nghiệm thực tế từ Ba Vì, Xuân Sơn, Cúc Phương, Pù Mát, Bạch Mã và Cát Tiên. Các mô hình được đánh giá cao như:

    - Trồng cây dược liệu dưới tán rừng: Mô hình được triển khai thành công ở Ba Vì, Hoàng Liên, Kon Ka Kinh… với các loài như ba kích, sa nhân tím, đinh lăng, lan kim tuyến. Thu nhập hộ tăng 1,5–3 lần so với trồng nông nghiệp truyền thống; đồng thời độ che phủ rừng tăng, nguồn gen cây thuốc được bảo tồn. Phát triển cây dược liệu dưới tán rừng không chỉ góp phần nâng cao thu nhập và sinh kế bền vững cho người dân vùng đệm mà còn đóng vai trò quan trọng trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn.

    - Du lịch sinh thái cộng đồng: Ở Cúc Phương, Xuân Sơn, Pù Mát, mô hình homestay – trải nghiệm rừng – ẩm thực bản địa đã tạo sinh kế ổn định, giúp người dân bảo tồn văn hóa và giảm khai thác rừng. Nhiều hợp tác xã du lịch bản địa được hình thành, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng đệm.

    - Chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) giúp mỗi hộ dân nhận từ 3–6 triệu đồng/năm, thậm chí 8 triệu ở một số nơi. Khoảng 85% nguồn thu này được tái đầu tư vào bảo vệ rừng, giảm mạnh tình trạng vi phạm lâm luật.

    - Nông – lâm kết hợp theo hướng kinh tế tuần hoàn, thích ứng với biến đổi khí hậu, triển khai các hệ thống canh tác kết hợp giữa cây gỗ, cây ăn quả, cây nông nghiệp và chăn nuôi ở vườn quốc gia Ba Vì, Bạch Mã, Pù Mát, Yok Don… Kết quả cho thấy các mô hình này mang lại hiệu quả rõ rệt: độ che phủ cây xanh được duy trì ổn định; lượng phát thải khí nhà kính giảm; thu nhập hộ tăng từ 20-40% so với sản xuất đơn thuần. Ngoài ra, việc áp dụng tiêu chuẩn sản xuất bền vững (VietGAP, hữu cơ, FSC) đang góp phần nâng cao giá trị kinh tế và tính cạnh tranh của sản phẩm vùng đệm.

    Ngoài ra, các mô hình khôi phục tri thức bản địa trong quản lý rừng cộng đồng – như quy ước bảo vệ rừng của người Thái, Dao, H’Mông – cũng được đánh giá là hướng đi nhân văn, gắn bảo tồn thiên nhiên với văn hóa bản địa.

 

    Thách thức và giải pháp cho giai đoạn tới

    Bên cạnh kết quả tích cực, các đại biểu cũng chỉ ra những tồn tại: mô hình sinh kế quy mô nhỏ, khó nhân rộng; năng lực cộng đồng hạn chế; đầu ra cho sản phẩm sinh thái chưa ổn định…

    Từ thực tiễn đó, các chuyên gia đề xuất 5 nhóm giải pháp trọng tâm:

    1. Lồng ghép các chương trình phát triển sinh kế với quy hoạch vùng đệm. Quy hoạch sinh kế theo không gian sinh thái - xã hội giúp tránh xung đột tài nguyên và tối ưu hóa giá trị dịch vụ hệ sinh thái.

    2. Liên kết chuỗi giá trị - yếu tố quyết định tính bền vững của mô hình sinh kế. Các mô hình sinh kế ở vùng đệm chỉ thực sự hiệu quả khi được gắn với doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức tài chính hoặc thị trường tiêu thụ ổn định. Đây là yếu tố cốt lõi để nhân rộng mô hình.

    3. Ứng dụng khoa học – công nghệ trong quản lý rừng, giám sát dịch vụ hệ sinh thái và truy xuất nguồn gốc sản phẩm.

    4. Phát huy tri thức bản địa, kết hợp với kỹ thuật hiện đại và quản lý thích ứng.

    5. Tăng cường vai trò của khuyến nông trong đào tạo, chuyển giao kỹ thuật và nhân rộng mô hình sinh kế bền vững.

    Phát biểu tổng kết tọa đàm, ông Hoàng Văn Hồng – Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia khẳng định: Bảo tồn rừng không thể tách rời khỏi sinh kế của người dân. Khi người dân được hưởng lợi từ rừng, người dân sẽ trở thành người bảo vệ rừng tích cực, hiệu quả nhất.

    Tọa đàm đã tạo diễn đàn trao đổi đa chiều giữa nhà quản lý, nhà khoa học và cộng đồng. Kết quả của Tọa đàm góp phần hình thành những định hướng chính sách mới cho công tác bảo tồn – phát triển sinh kế – bảo vệ môi trường.

leftcenterrightdel
Ông Hoàng Văn Hồng – Phó Giám đốc TTKNQG tổng kết tọa đàm

Nguyễn Sâm

Trung tâm Khuyến nông quốc gia