1. Nhận định khả năng mặn xâm nhập
Với tình hình diễn biến nguồn nước như hiện nay, kế hoạch sử dụng nước cho sản xuất, dự báo khí tượng thủy văn... Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam nhận định, mùa khô năm 2015 - 2016 là năm có khả năng mặn xâm nhập sớm, sâu và kéo dài, cụ thể:
- Các vùng cách biển 25 - 35 km: Từ tháng 12 mặn có khả năng vượt quá 4 g/l, từ tháng 1 - 2 trở đi, các vùng này gần như không có khả năng lấy nước ngọt từ cửa sông.
- Các vùng cách biển 45 - 65 km: từ tháng 1/2016 đến tháng 4-5/2016 có khả năng bị mặn cao (> 4 g/l) xâm nhập. Nếu mưa đến chậm, xâm nhập mặn có thể kéo dài đến tháng 6/2016. Trong thời kỳ này, vào những đợt triều cường, mặn sẽ xâm nhập sâu; khi triều rút, mực nước thấp có khả năng xuất hiện nước ngọt (trong một ngày, đỉnh triều có thể mặn khá cao, nhưng chân triều có thể độ mặn thấp, có thế lấy nước).
- Các vùng cách biển xa hơn 65 - 70 km tuy ít gặp xâm nhập mặn 4g/l, nhưng cũng cần cẩn thận trong các đợt triều cường, và vẫn là vùng xâm nhập của nước mặn nồng độ dưới 4 g/l, ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt.
Như vậy, mùa khô 2015-2016, dự báo mặn sẽ đến sớm (tháng 12/2015), xâm nhập sâu và kéo dài suốt mùa (đến tận tháng 4-5/2016).
Dự báo các tác động đến nước ngọt cho sản xuất và nước sinh hoạt:
- Lúa đông xuân, xuân hè, cây công nghiệp ngắn ngày, rau màu sẽ có khả năng bị giảm năng suất hoặc mất trắng do thiếu nước, nhất là các vùng ven biển. Đặc biệt trong năm 2015, do mưa đến muộn khoảng 30 ngày, nên một số vùng vụ lúa hè thu xuống giống muộn dẫn đến có khả năng vụ lúa đông xuân thời kỳ lúa đứng cái - làm đồng sẽ rơi vào thời kỳ mặn gay gắt, nguồn nước khó khăn nhất của mùa khô (nếu tình hình thời tiết không có gì thay đổi);j
- Chi phí sản xuất tăng do sử dụng bơm (có thế phải bơm chuyền 2 đến 3 cấp) để tận dụng nguồn nước thấp trong kênh nội đồng chống hạn;
- Thủy sản (nhất là tôm) bị thiệt hại hoặc giảm năng suất do không có nguồn nước ngọt pha loãng nồng độ mặn phù hợp, ô nhiễm môi trường tăng, độ mặn quá cao vượt ngưỡng giới hạn chịu đựng của tôm;
- Thiếu nước ngọt sinh hoạt cho người dân, nhất là các vùng ven biến, các vùng Cù Lao cửa sông (Tân Phú Đông - tỉnh Tiền Giang, Hòa Minh - Trà Vinh, Cù lao Dung - Sóc Trăng, các huyện ven biến tỉnh Bến Tre.).
Một số vùng cần đặc biệt chú ý:
- Vùng Gò Công (dự án Gò Công, Tiền Giang), Trà Vinh (dự án Nam Mang Thít) từ tháng 12, 1, 2 trở đi phải đóng dần các cống từ cuối lên. Tháng 1, 2, 3, 4, 5 (nếu không mưa) phải tăng cường chuyến nước từ trên xuống theo các kênh dọc trục trong hệ thống. Cần có kế hoạch nạo vét, tăng cường năng lực chuyển nước của các kênh trục hệ thống và bơm để lấy nước (lúc này nước ngọt trong kênh rất thấp).
- Vùng Long Phú - Tiếp Nhật (Sóc Trăng): từ giữa tháng 12/2015 trở đi có thể gặp khó khăn về nước tưới. Do vậy cần có kế hoạch bơm trữ, đóng cống hợp lý để tích nước ngay từ tháng 11, đầu tháng 12.
- Vùng ranh Sóc Trăng - Bạc Liêu (Bán đảo Cà Mau):
+ Xâm nhập mặn phụ thuộc rất mạnh vào chế độ vận hành các cống ngọt hóa ven QL 1A từ Bạc Liêu đi Cà Mau.
- Năm nay, mực nước mùa khô các vùng phía Bắc QL 1A tại Ninh Quới, tỉnh Bạc Liêu, có thể hạ thấp, nguồn ngọt về giữa Bán đảo khó khăn. Cần lưu ý khi mở cống lấy mặn tăng cường cho vùng phía Tây QL-PH dễ gây nên xâm nhập mặn lên đến Ngã Năm tỉnh Sóc Trăng.
- Các vùng Đông Hà Tiên cũng cần chú ý chuẩn bị chống hạn mặn từ tháng 1 trở đi.
- Thành phố Vị Thanh mặn có thể xâm nhập với nồng độ đạt đến 2 - 4 g/l vào tháng 3, tháng 4 (nếu không mưa). Các hồ chứa nước thô của nhà máy nước Rạch Giá cũng có nguy cơ nhiễm mặn.
2. Đề xuất các giải pháp chống hạn - mặn
Để đảm bảo nguồn nước ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh những tháng mùa khô năm 2015 - 2016, tất cả các địa phương ở ĐBSCL cần phải có kế hoạch triển khai công tác phòng chống hạn, xâm nhập mặn ở thế chủ động ngay từ điểm hiện nay là cuối mùa mưa - đầu mùa khô. Cụ thể như sau:
a. Về công trình
- Đắp đập thời vụ (đập tạm) trữ nước ngăn mặn.
- Nạo vét một số trục kênh chính, củng cố bờ bao ngăn mặn, trữ ngọt.
- Trữ nước trên hệ thống kênh rạch nội đồng.
- Trước mắt đầu tư nạo vét kênh mương, đắp đập thời vụ ngăn mặn và trữ nước ngọt chống hạn, đảm bảo nguồn nước sinh hoạt của nhân dân, phối hợp giữa các địa phương và tập trung chống hạn bằng nhiều nguồn vốn.
b. Quản lý điều tiết nước và vận hành cống
- Giám sát mặn thường xuyên, vận hành hợp lý các công trình vừa để lấy nước, ngăn mặn, thau rửa hệ thống. Cần lưu ý các hệ thống ngọt hóa ven biển Đông, vùng Bán đảo Cà Mau.
- Chủ động trữ nước, lấy nước trong điều kiện cho phép.
- Định kỳ thoát nước mặn và nguồn nước ô nhiễm trên kênh rạch.
- Phối hợp giữa các địa phương trong quản lý vận hành hệ thống công trình thủy lợi phục vụ chống hạn và xâm nhập mặn.
c. Làm tốt công tác thông tin, dự báo mặn
Dự báo dài hạn, ngắn hạn và cập nhật thông tin độ mặn (trong ngày) trên các phương tiện thông tin đại chúng (đài phát thanh, truyền hình...).
3. Giải pháp sử dụng nguồn nước
a. Bơm tưới chống hạn
- Tùy theo vị trí địa lý, khai thác tối đa lợi thế của thủy triều như đối với vùng giáp ranh, tranh thủ thời điểm triều cường, bơm nước cho các vùng phía đầu nguồn nhằm lấy nước phục vụ tưới và chống hạn.
- Tại các vùng ven biển, tranh thủ thời kỳ triều kém, triều rút, khi đó cũng là lúc dòng ngọt xuất hiện nhiều hơn, chủ động bơm nước tưới cho các vùng phía hạ lưu.
b. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi
- Cập nhật thông tin dự báo về nguồn nước và mặn để bố trí thời vụ đông xuân và hè thu hợp lý. Hạn chế sản xuất vụ lúa xuân hè là loại cây trồng sinh trưởng trong mùa khô.
- Lựa chọn các giống chịu hạn mặn, sử dụng các loại cây trồng tốn ít nước.
- Khuyến cáo người dân sử dụng nước tiết kiệm.
- Quy hoạch vùng nuôi thủy sản nước mặn hợp lý, ổn định, để có ranh giới mặn ngọt rõ ràng, có các biện pháp công trình, phương án điều tiết nước hợp lý cho sản xuất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
BBT (gt)