Tại tọa đàm, các đại biểu nghe báo cáo tham luận về: Hoạt động khuyến nông - khuyến nông cộng đồng trong thực hiện Đề án và định hướng hoạt động của Tổ khuyến nông cộng đồng trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; Sự hợp tác giữa hệ thống khuyến nông với doanh nghiệp để thúc đẩy triển khai Đề án và các mô hình công tư thành công; Kinh nghiệm sản xuất, đề xuất từ các tổ chức, doanh nghiệp và địa phương…

leftcenterrightdel
 Toàn cảnh tọa đàm

    Đại diện Trung tâm Khuyến nông quốc gia cho biết, Trung tâm đã phối hợp với Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật (Bộ NN&MT), Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế, Sở NN&MT các địa phương và đơn vị liên quan triển khai 7 mô hình thí điểm tại TP. Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Đồng Tháp, Kiên Giang trong năm 2024 – 2025. Đồng thời thực hiện dự án khuyến nông Trung ương “Xây dựng mô hình canh tác lúa giảm phát thải phục vụ phát triển bền vững vùng nguyên liệu lúa gạo xuất khẩu của Đồng bằng sông Cửu Long” do Công ty cổ phần phân bón Bình Điền chủ trì với tổng diện tích 600 ha, qua hai vụ lúa Đông Xuân 2024-2025 và Hè Thu 2025. Kết quả thực hiện dự án, mô hình đã giúp nâng cao chất lượng lúa, giảm chi phí vật tư đầu vào, giảm phát thải khí nhà kính, tăng hiệu quả kinh tế và nâng cao năng lực cho nông dân trong áp dụng canh tác tiên tiến.

leftcenterrightdel
Ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia phát biểu tại tọa đàm 

    Phát biểu tại tọa đàm, ông Lê Quốc Thanh, Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia, nhấn mạnh: Việc triển khai Đề án đã ghi nhận những kết quả tích cực. Các chỉ tiêu giai đoạn đầu không chỉ hoàn thành vượt mức về mặt diện tích, mà quan trọng hơn là đã tạo ra sự thay đổi mạnh mẽ trong tư duy sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là đối với ngành hàng lúa gạo vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đặc biệt Đề án đã xuất khẩu lô gạo đầu tiên mang thương hiệu “Gạo Việt xanh, phát thải thấp” sang Nhật Bản - dấu mốc quan trọng khẳng định thương hiệu gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.

    Tại tọa đàm, các chuyên gia tập trung chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, bài học thành công, những khó khăn trong tổ chức sản xuất, đồng thời đề xuất nhiều giải pháp kỹ thuật, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, cơ chế chính sách và hợp tác công tư.

leftcenterrightdel
 Tọa đàm đã nhận được nhiều ý kiến đóng góp về các giải pháp nhân rộng mô hình trong thời gian tới

    Để nhân rộng mô hình canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp, Trung tâm Khuyến nông quốc gia sẽ tiếp tục triển khai, nhân rộng diện tích mô hình tại các địa phương theo diện tích đã đăng ký với Bộ; tiếp tục triển khai các Dự án Khuyến nông Trung ương, các mô hình hợp tác PPP về sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp; phối hợp với các địa phương, doanh nghiệp, hiệp hội xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu lúa gạo, xây dựng và đẩy mạnh thương hiệu “Gạo Việt xanh, phát thải thấp”. Bên cạnh đó, Trung tâm tăng cường phổ biến sâu rộng đến từng địa phương, HTX và nông dân về các quy trình sản xuất lúa chất lượng cao, phát thải thấp; tổ chức các sự kiện truyền thông gắn với những vấn đề thời sự như xử lý rơm rạ, tiết kiệm nước, liên kết tiêu thụ sản phẩm… Chú trọng phương pháp đào tạo tập huấn ngoài hiện trường, đào tạo trực tuyến, ứng dụng chuyển đổi số, trí tuệ nhân tạo.

    Một nội dung trọng tâm mà Khuyến nông quốc gia sẽ tập trung thực hiện để nhân rộng mô hình canh tác lúa chất lượng cao, phát thải thấp, đó là kiện toàn và phát huy hơn nữa vai trò của lực lượng khuyến nông cộng đồng bằng cách hành động cụ thể như: Hoàn thiện cơ chế hoạt động của khuyến nông cộng đồng; Đào tạo, bồi dưỡng; Tạo điều kiện để khuyến nông cộng đồng tham gia triển khai các mô hình thí điểm, Dự án Khuyến nông Trung ương và các mô hình hợp tác công - tư; Bố trí kinh phí và trang thiết bị cần thiết để lực lượng khuyến nông cộng đồng đảm nhận nhiệm vụ đo đạc, giám sát và báo cáo phát thải (MRV) tại cơ sở, góp phần hình thành hệ thống MRV thống nhất, minh bạch.

Hợp tác công – tư (PPP) được xem là một trong những giải pháp then chốt để nhân rộng các mô hình trong Đề án. Ông Lê Quốc Thanh nhận định rằng, việc gắn kết doanh nghiệp vào hệ thống khuyến nông sẽ giúp hình thành cơ chế bền vững, vừa bảo đảm lợi ích cho người làm công tác khuyến nông, vừa thúc đẩy năng lực ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Trong mô hình hợp tác ba bên (khuyến nông – doanh nghiệp – nông dân), doanh nghiệp đóng vai trò là đầu kéo đưa sản phẩm ra thị trường. Sự hợp tác này tạo nên một hệ thống vận hành linh hoạt, giúp nông dân tiếp cận công nghệ mới, áp dụng quy trình sản xuất chuẩn, truy xuất nguồn gốc, giảm chi phí đầu vào và hướng tới sản xuất xanh. Thời gian tới, sẽ có những cơ chế phối hợp chặt chẽ hơn TTKNQG và hệ thống doanh nghiệp trong chuỗi giá trị, đặc biệt là trong triển khai các mô hình thí điểm và xây dựng vùng nguyên liệu quy mô lớn; xây dựng cơ chế hợp tác công tư đối với hoạt động khuyến nông phù hợp với chính quyền địa phương 2 cấp; phát triển nền tảng số và ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong khuyến nông; xây dựng hệ thống dữ liệu minh bạch, được kiểm chứng, cần hoàn thiện chính sách hỗ trợ tài chính và ưu tiên nguồn lực cho nghiên cứu, phát triển (R&D).…

    Trong khuôn khổ tọa đàm, Viện Nghiên cứu Lúa gạo Quốc tế (IRRI) và Trung tâm Khuyến nông quốc gia (TTKNQG) đã chính thức ký kết Biên bản ghi nhớ hợp tác chiến lược 5 năm. Đây được xem là bước tiến quan trọng trong việc xây dựng nền tảng phát triển bền vững cho ngành lúa gạo Việt Nam, đặc biệt là thực hiện Đề án 1 triệu ha chuyên canh lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng ĐBSCL.

TH