leftcenterrightdel
 Ban chủ trị hội thảo

    Hội thảo có sự tham gia của đại diện Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), đại diện các đơn vị quản lý ngành nông nghiệp, khuyến nông địa phương; các viện nghiên cứu, tổ chức chứng nhận, doanh nghiệp chế biến gỗ, hợp tác xã; cùng hơn 100 nông dân trồng rừng đến từ các tỉnh Gia Lai, Quảng Ngãi và Đắk Lắk.

    Đây là diễn đàn giúp các bên cùng trao đổi, tháo gỡ khó khăn, đề xuất giải pháp phát triển rừng trồng gỗ lớn có chứng chỉ – hướng tới mục tiêu nâng cao giá trị sản xuất lâm nghiệp và phát triển bền vững ngành gỗ Việt Nam.

leftcenterrightdel
 Toàn cảnh hội thảo

    Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong phát triển rừng trồng sản xuất – với hơn 4,7 triệu hec-ta rừng trồng, trong đó có gần 500 nghìn hec-ta rừng trồng gỗ lớn.     Sản lượng khai thác gỗ rừng trồng hàng năm đạt hơn 23 triệu m3, đóng góp đáng kể cho xuất khẩu lâm sản với kim ngạch đạt trên 16 tỷ USD/năm, đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ đứng thứ 5 thế giới.

    Tuy nhiên, trước yêu cầu hội nhập quốc tế ngày càng cao, đặc biệt là khi Quy định của Liên minh châu Âu về sản phẩm không gây mất rừng – EUDR có hiệu lực từ 30/6/2023 và sẽ bắt đầu áp dụng bắt buộc từ ngày 30/12/2025 đối với doanh nghiệp lớn và từ ngày 30/6/2026 đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngành lâm nghiệp Việt Nam đang đứng trước cả cơ hội và thách thức lớn.

    EUDR đặt ra ba yêu cầu then chốt: sản phẩm gỗ phải được khai thác trên diện tích không bị mất rừng sau ngày 31/12/2020; hoạt động sản xuất phải tuân thủ đầy đủ pháp luật quốc gia; và mỗi lô hàng xuất khẩu vào EU phải kèm báo cáo trách nhiệm giải trình, lưu giữ tối thiểu 5 năm. Ngoài ra, sản phẩm gỗ cần được truy xuất đến tận tọa độ lô rừng – điều chưa từng có trong các quy định trước đây. Điều này tạo nên một “luật chơi mới” trong thương mại quốc tế, buộc các quốc gia xuất khẩu, trong đó có Việt Nam, phải thay đổi căn bản phương thức quản lý và tổ chức sản xuất lâm nghiệp.

    Việc đáp ứng các tiêu chuẩn về nguồn gốc gỗ hợp pháp, truy xuất minh bạch và quản lý rừng bền vững trở thành yêu cầu bắt buộc nếu Việt Nam muốn duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu. Trong bối cảnh đó, phát triển rừng trồng gỗ lớn có chứng chỉ quản lý rừng bền vững (VFCS/PEFC) là hướng đi đúng đắn và cấp thiết. Đây không chỉ là giải pháp để nâng cao giá trị gia tăng của rừng trồng, mà còn góp phần bảo vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính và nâng cao sinh kế cho người dân miền núi.

leftcenterrightdel
 Đại diện TTKNQG trình bày báo cáo

    Theo báo cáo tại hội thảo, tính đến giữa năm 2025, cả nước có khoảng 680 nghìn ha rừng trồng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC hoặc VFCS/PEFC), chiếm gần 15% diện tích rừng trồng sản xuất. Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 đạt ra mục tiêu đến năm 2030, diện tích rừng có chứng chỉ quản lý rừng bền vững đạt trên 01 triệu ha; trong đó, 100% diện tích rừng của các chủ rừng là tổ chức được quản lý bền vững; sản lượng gỗ khai thác từ rừng trồng đạt 50 triệu m3, giá trị xuất khẩu đạt 23-25 tỷ USD vào năm 2030. Để hiện thực hoá mục tiêu đó, ngành lâm nghiệp cần nỗ lực tháo gỡ các “điểm nghẽn” trong tiến trình nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành gỗ Việt Nam trước các yêu cầu khắt khe của thị trường quốc tế, đặc biệt là EUDR.

    Một trong những khó khăn được các đại biểu chỉ ra là quy mô sản xuất còn phân tán, nhỏ lẻ. Hiện, khoảng 90% diện tích rừng trồng thuộc hộ gia đình, trong đó phần lớn quy mô dưới 4 ha, gây trở ngại cho việc áp dụng quy trình kỹ thuật đồng bộ và cấp chứng chỉ rừng. Việc đánh giá, cấp và duy trì chứng chỉ quản lý rừng bền vững đòi hỏi kinh phí lớn; nhiều hộ trồng rừng nhỏ lẻ không đủ khả năng chi trả nếu không có hỗ trợ. Bên cạnh đó, hệ thống bản đồ địa chính, thông tin về tọa độ và diện tích lô rừng chưa được số hóa đầy đủ; gây khó khăn trong việc kiểm chứng minh bạch theo yêu cầu EUDR.

leftcenterrightdel
 Các đại biểu trao đổi tại hội thảo

    Tại Hội thảo, các đại biểu khẳng định muốn vượt qua những rào cản kỹ thuật của EUDR, cần có sự chung tay của các bên tham gia. Bộ Nông nghiệp và Môi trường cần ban hành hướng dẫn cụ thể về truy xuất nguồn gốc đáp ứng yêu cầu EUDR; đẩy nhanh việc hoàn thiện cơ sở dữ liệu vùng trồng và hệ thống số hóa quản lý; tiếp tục triển khai chính sách hỗ trợ chi phí cấp chứng chỉ. Chính quyền địa phương cần quy hoạch vùng nguyên liệu rừng gỗ lớn tập trung; khuyến khích hình thành các hợp tác xã để áp dụng quản lý theo tiêu chuẩn bền vững; thúc đẩy liên kết giữa doanh nghiệp và hợp tác xã; tăng cường phối hợp liên ngành nhằm hỗ trợ pháp lý, đo đạc và chuẩn hóa dữ liệu phục vụ truy xuất.

    Đặc biệt, hệ thống khuyến nông các cấp tiếp tục phát huy vai trò cầu nối giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân; xây dựng mô hình trình diễn rừng gỗ lớn có chứng chỉ để chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ thực hành; tổ chức đào tạo, tập huấn, truyền thông nâng cao nhận thức; đồng thời hợp tác với các tổ chức quốc tế nhằm huy động nguồn lực kỹ thuật và tài chính cho phát triển rừng gỗ lớn đáp ứng yêu cầu EUDR.

leftcenterrightdel
 Trong khuôn khổ hội thảo, các đại biểu thăm mô hình sản xuất giống keo lai mô của Công ty Lâm nghiệp Quy Nhơn

Ánh Nguyệt – Nguyễn Sâm

Xem thêm tin, bài trên các báo:

Báo Nhân dân điện tử

Báo điện tử VOV

Báo Gia Lai