Năm 2006, nghề nuôi tôm hùm lồng thương phẩm ở một số tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa phát triển rầm rộ, nhu cầu con giống cao, nhiều đầu nậu lùng sục khắp nơi để tìm mua với giá ngất ngưỡng. Nắm bắt được nhu cầu đó, ông Hiến đã chuyển sang nghề đánh bắt tôm hùm giống. Từ đó, ông Hiến ngày đêm tự mày mò, nghiên cứu mua lưới ni lông, với kích cỡ lưới A5 và ghe để khai thác. Tuy nhiên, thời tiết khắc nghiệt, cộng với địa bàn là bãi ngang, ghe lại nhỏ và khó neo đậu… nên công sức bỏ ra nhiều nhưng thu nhập chưa cao. Đã hơn 3 năm theo nghề đánh bắt tôm hùm giống, ông không đành lòng bỏ nghề. Cuối năm 2009, ông tiếp tục tìm tòi, lân la vào tận Phú Yên (nơi có nghề đánh bắt tôm hùm giống phát triển và hiệu quả cao) để “tầm sư học đạo”. Sau khi tận mắt chứng kiến cách “thu phục” tôm hùm giống từ tỉnh bạn, ông Hiến quyết định thay đổi cách đánh bắt tôm hùm giống sao cho phù hợp với tình hình ở địa phương. Về nhà, ông tự sáng chế mành chặn thúng để khai thác, không ngờ hiệu quả đem lại vượt trội so với phương pháp lâu nay.

Nếu dùng ghe, thuyền đánh bắt tôm hùm giống tốn chi phí xăng dầu, chi phí các phụ kiện cao, hơn nữa phải ra khơi, bám trụ đến khi đánh bắt xong mới vào bờ và đòi hỏi phải có từ 8 – 10 người/thuyền, sản lượng thu được phải chia đều nên thu nhập đầu người không cao. Trong khi đó, dùng mành chặn thúng để khai thác tôm hùm giống thì chỉ cần 3 nhân công, đánh bắt gần bờ nên ít rủi ro, đêm xuống đánh xong mành đưa thúng vào bờ nghĩ ngơi khoảng 3 đến 4 giờ sáng đưa thúng ra mành kéo lưới lên thu hoạch tôm, sau đó tiếp tục đánh mành tại chỗ cũ, đưa thúng vào bờ chờ thu hoạch tiếp.

Theo ông Hiến, để trang bị cho việc “đi săn” tôm hùm giống cần những dụng cụ đơn giản như sắm một chiếc thúng lưới vàng mành, đàng neo, đốc neo giằng hai đầu lưới và “cải tiến” mành lưới với tổng chi phí khoảng từ 12 – 15 triệu đồng. Để bủa được loài tôm nhỏ bé nhưng đầy giá trị này, cần phải tìm hiểu kỹ sở thích, cách di chuyển của chúng. Nghề này không phải địa phương nào cũng làm được mà đòi hỏi địa điểm đánh bắt tôm hùm giống phải có dòng nước chảy và bản thân người đánh bắt phải am hiểu về dòng chảy mới làm được.

Ông Hiến cho biết, mùa đầu tiên áp dụng sáng chế của mình là vào năm 2010, ông nhớ lại, chỉ 3 đêm vô mánh, nhóm bạn của ông đã “bủa” được 300 con, bán được 45 triệu đồng/3 người. So với đánh bắt bằng ghe thì phải mất cả mùa.

Đánh bắt tôm hùm giống bằng mành chặn thúng một đêm thu hoạch bình quân từ 2 đến 5 triệu đồng. Năm 2011, gia đình ông Hiến thu nhập từ đánh bắt tôm hùm giống được 150 triệu đồng. Nhiều hộ được ông hướng dẫn cũng thu nhập từ 30 – 60 triệu đồng.

Mùa đánh bắt tôm hùm giống ở Nhơn Lý bắt đầu từ tháng 11 âm lịch của năm trước đến tháng 3 năm sau. Trong đó, mùa nước trong chiếm khoảng 1 tháng, mùa nước đục hơn 3 tháng. Theo nhiều ngư dân khai thác tôm hùm giống nơi đây cho biết mùa nước trong thì dùng ghe, thuyền đánh bắt tôm hùm hiệu quả hơn so với dùng mành chặn thúng, tuy nhiên chỉ đánh được trong vòng 1 tháng. Đến mùa nước đục thì đành bó tay, phải nhường ngư trường cho cách đánh bắt bằng mành chặn thúng, nên nhiều ngư dân đang “nghiện” cách đánh bắt này.

Bà Lê Thị Kim Mai, Phó Chủ tịch Hội Nông dân tỉnh cho biết: Sáng chế mành chặn thúng đánh bắt tôm hùm giống của hộ ông Hiến đạt hiệu quả cao, đã giúp nhiều hộ ngư dân không có ghe thuyền ở Nhơn Lý có công ăn, việc làm, cải thiện đời sống. Mặc khác, việc đánh bắt, khai thác tôm hùm giống theo cách này không sử dụng xăng, dầu, giảm chi phí, không gây tác hại môi trường biển, tạo thêm nghề mới cho ngư dân.

Năm 2011, ông đem sáng chế mành chặn thúng đánh bắt tôm hùm giống của mình tham gia cuộc thi “Sáng tạo nhà nông” tại tỉnh nhà và ông đã đạt giải nhất trong cuộc thi này. Sáng chế của ông đã “qua mặt” hàng chục giải pháp khác cũng do chính người nông dân trong quá trình lao động đã tự sáng chế và tham gia. Tuy nhiên, điều đó với ông không quan trọng, ông mong muốn cách đánh bắt này sớm đến được với nhiều ngư dân, giúp bà con tiết kiệm chi phí, khai thác tôm hùm giống đạt hiệu quả.

Minh Khoa