Nghề dâu tằm tơ gồm bốn công đoạn chính là trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Nó vừa mang đặc điểm của trồng trọt vừa có đặc điểm của chăn nuôi, vừa kết hợp giữa công nghiệp chế biến và nghệ thuật. Trải qua hàng ngàn năm phát triển, nghề tằm có ý nghĩa xã hội rất sâu sắc và mang đậm tính nhân văn. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, sản xuất dâu tằm ở Việt Nam không ổn định với nhiều bước thăng trầm.

Nhằm tháo gỡ khó khăn, tìm ra những giải pháp góp phần xây dựng vùng nguyên liệu dâu tằm tơ và phát triển thương mại ngành dâu tằm tơ Việt Nam bền vững, chiều 11/11/2023 vừa qua, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã tổ chức Hội thảo "Xây dựng vùng nguyên liệu và Phát triển thương mại ngành dâu tằm tơ".

Hội thảo thu hút gần 150 đại biểu gồm các nhà quản lý, nhà khoa học và chuyên gia đến từ Cục Kinh tế hợp tác và PTNT, Trung tâm Nghiên cứu dâu tằm tơ Trung ương, Hiệp hội Dâu tằm tơ Việt Nam, Trung tâm Nông nghiệp Quốc tế Hàn Quốc (KOPIA)…; cùng với các nghệ nhân làng nghề, đại diện doanh nghiệp, hợp tác xã trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa tiêu tiểu đến từ các làng nghề truyền thống thuộc các tỉnh/thành phố: Hà Nội, Thái Bình, Yên Bái, Lâm Đồng, Lào Cai, Tuyên Quang, Quảng Nam, Quảng Ngãi…

leftcenterrightdel
Toàn cảnh hội thảo 

Theo thông tin tại Hội thảo, tính đến năm 2022, cả nước có gần 40.000 hộ nông dân làm nghề trồng dâu nuôi tằm, diện tích dâu tằm đạt 13.210 ha, sản lượng kén đạt 16.824 tấn/năm, sản lượng tơ đạt khoảng 2.000 tấn/năm. Việt Nam đang đứng thứ 3 thế giới về sản lượng tơ, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ, giá trị xuất khẩu năm 2022 đạt 70 triệu USD/năm.

Nhận xét về ngành dâu tằm tơ, ông Nguyễn Doãn Hùng, Trưởng phòng Khuyến nông Trồng trọt và Lâm nghiệp, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia cho rằng, ngành dâu tằm tơ Việt Nam đang gặp nhiều trở ngại cả về sản xuất và thị trường. Trong đó, nghề trồng dâu nuôi tằm được thực hiện chủ yếu tự phát, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, chưa có một quy hoạch tổng thể và chương trình phát triển dài hạn để hình thành các vùng nguyên liệu gắn với tổ chức sản xuất và liên kết tiêu thụ sản phẩm. Nhiều khâu trong sản xuất vẫn dựa vào thủ công, cơ giới hóa còn nhiều hạn chế. Trình độ áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, kỹ thuật canh tác, phòng trừ dịch bệnh... còn thấp. Việc nuôi tằm vẫn phụ thuộc nhiều vào thời tiết, biến đổi khí hậu, sâu bệnh hại… khiến sản lượng kén thực tế thấp hơn nhiều so với năng suất tiềm năng. Chưa chủ động được nguồn trứng giống tằm và phụ thuộc phần lớn nguồn giống nhập khẩu từ nước ngoài. Các giống tằm trong nước đã cải thiện chất lượng tơ nhưng chỉ chiếm được một thị phần nhỏ. Bên cạnh đó, mối liên kết giữa người sản xuất và người mua kén không chặt chẽ, thiếu tính bền vững; ngành dâu tằm tơ Việt Nam chủ yếu sản xuất kén, chế biến tơ thô xuất khẩu nguyên liệu.

Theo đại diện Cục Kinh tế Hợp tác và PTNT, trồng dâu, nuôi tằm hiện được phát triển ở 36 tỉnh/thành, tập trung chủ yếu tập trung ở tỉnh Lâm Đồng. Cùng với hai tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông, 3 tỉnh Tây Nguyên chiếm gần 75% tổng diện tích trồng dâu trên cả nước. Thời gian qua, một số tỉnh như Lâm Đồng, Đắk Lắk, Quảng Nam, Yên Bái, Lào Cai đã quan tâm phát triển trồng dâu nuôi tằm. Tuy nhiên, trên cả nước, chưa nhiều địa phương có chính sách phát triển riêng cho ngành dâu tằm tơ. Tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm dâu tằm tơ chủ yếu là tự phát, các tỉnh chưa quy hoạch để hình thành các vùng nguyên liệu gắn với tổ chức sản xuất và liên kết tiêu thụ sản phẩm theo các mô hình HTX, THT.

Đồng quan điểm, bà Lương Thanh Hạnh, Giám đốc HTX Dệt đũi Nam Cao, Thái Bình cho rằng, điểm yếu của ngành dâu tằm tơ Việt Nam là chưa có quy hoạch và định hướng phát triển lâu dài; sản xuất nhỏ, manh mún, thiếu tính chuyên nghiệp; thiếu các chính sách thúc đẩy và hỗ trợ sản xuất; chưa xây dựng được thương hiệu.

leftcenterrightdel
Bà Lương Thanh Hạnh, Giám đốc HTX Dệt đũi Nam Cao, Thái Bình trình bày báo cáo tại hội thảo

Ông Trần Văn Tuận - đại diện Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Lâm Đồng cho biết, đến hết năm 2022, diện tích trồng dâu tại Lâm Đồng đạt 9.882 ha (trong đó diện tích trồng dâu ứng dụng công nghệ cao đạt trên 2.000 ha), với khoảng trên 15.000 hộ trồng dâu nuôi tằm, tập trung chủ yếu tại các huyện Lâm Hà (3.510 ha), huyện Đạ Tẻh (1.573 ha), huyện Đức Trọng (1.754 ha), thành phố Bảo Lộc (749 ha), huyện Di Linh (710 ha), huyện Đam Rông (630 ha), huyện Bảo Lâm (596 ha),... Diện tích cây dâu tằm tăng bình quân 7,6%/năm. Sản lượng lá dâu đạt 250.398 tấn/năm, sản lượng kén tằm đạt 14.867 tấn/năm; sản lượng sợi tơ các loại đạt 2.117 tấn.

Lâm Đồng hiện có 200 cơ sở nuôi tằm con tập trung (công suất sản xuất bình quân 100 hộp trứng/cơ sở/tháng vào mùa nắng và 200 hộp trứng/cơ sở/tháng vào mùa mưa). Tuy nhiên, do chưa chủ động được nguồn trứng giống tằm và phụ thuộc phần lớn nguồn giống nhập khẩu từ nước ngoài dẫn đến ngành chăn nuôi tằm phát triển còn thiếu bền vững.

“Đến hết năm 2023 tỉnh Lâm Đồng hoàn thành Đề án phát triển bền vững ngành dâu tằm tơ tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2019-2023. Các chỉ tiêu trong đề án cơ bản hoàn thành. Sau khi tổng kết kết quả thực hiện đề án, để hình thành vùng nguyên liệu dâu tằm ổn định, gắn nghề trồng dâu nuôi tằm với ươm tơ dệt lụa và bảo vệ môi trường; nâng cao giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh cho sản phẩm dâu tằm tơ... Sở Nông nghiệp và PTNT sẽ tiếp tục xây dựng đề án và định hướng phát triển đến năm 2030 tầm nhìn 2040. Trong đó chú trọng vào phát triển lai tạo nguồn giống dâu, giống trứng tằm chất lượng cao, đảm bảo cung ứng đủ nhu cầu sản xuất trên địa bàn tỉnh, thay thế cho nguồn giống nhập khẩu” - ông Tuận nói.

TS Lê Hồng Vân, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Dâu tằm tơ Trung ương cho biết, thời gian qua, ngành dâu tằm tơ phát triển nhanh, diện tích dâu tăng gần gấp đôi nhưng nguồn cung giống dâu vẫn đáp ứng đủ nhu cầu. Các giống dâu mới chọn tạo trong nước đã tỏ rõ tính ưu việt, góp phần hạn chế tình trạng sử dụng các giống không rõ nguồn gốc. Hiện trung tâm đã nghiên cứu ra giống GQ2 được trồng phổ biến tại miền Bắc và miền Trung, năng suất trung bình đạt trên 35 tấn lá/ha. Trong điều kiện thâm canh có thể đạt năng suất 40 - 45 tấn/ha. Với vùng Tây Nguyên, 2 giống dâu S7-CB và VA-201 được trồng phổ biến, được bà con nông dân quen gọi là giống siêu lá và giống siêu cành. Trong đó, giống VA-201 có đặc điểm phân cành mạnh, năng suất 30 tấn/ha.

Về giống tằm, theo TS Lê Hồng Vân, các cơ sở sản xuất trong nước mới chỉ đáp ứng được đủ nhu cầu giống đa hệ kén vàng và giống tằm sắn. Hơn 90% nhu cầu giống tằm lưỡng hệ (giống có chất lượng tơ tốt hơn nhưng khó nuôi) vẫn đang nhập nội từ Trung Quốc. Vì vậy, xây dựng hệ thống nhân giống tằm là nhiệm vụ trọng tâm trong chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới từ nay đến năm 2030. Hệ thống sản xuất trứng giống nội địa thay thế cho nhập khẩu cần được xây dựng đồng bộ với hệ thống phân phối tới tay người dân, là cơ sở để huy động sự tham gia của các doanh nghiệp trong những giai đoạn tiếp theo.

Từ góc độ doanh nghiệp, bà Lương Thanh Hạnh, Giám đốc HTX Dệt đũi Nam Cao, Thái Bình gợi mở, có thể cho du khách trải nghiệm dệt lụa, xây dựng không gian văn hóa, du lịch gắn với làng nghề, phát triển nhiều sản phẩm từ tơ tằm, dàn đủ phân khúc cho tập khách hàng để giúp đa dạng hoá nguồn thu cho những làng nghề sản xuất lụa tơ tằm.

Ông Lê Quang Tú, Chủ tịch Hiệp hội Dâu tằm tơ Việt Nam đề xuất Bộ NN&PTNT xem xét chỉ đạo xây dựng chiến lược phát triển ngành dâu tằm tơ trong thời gian tới. Theo ông Tú, chỉ khi có một chiến lược bài bản, hoàn chỉnh, những giải pháp đồng bộ mới được triển khai, giúp người nông dân, doanh nghiệp vượt qua các thách thức về giống, vùng nguyên liệu, thị trường và đổi mới sáng tạo.

leftcenterrightdel
 Bà Phan Thị Thuận - nghệ nhân làng nghề Phùng Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Nội

Để thực hiện được mục tiêu đến năm 2025 đưa giá trị xuất khẩu ngành dâu tằm tơ đạt 150 triệu USD/năm đòi hỏi phải có các giải pháp đồng bộ và toàn diện từ giải pháp về KHCN như: cơ cấu giống, chất lượng giống, đặc biệt là giống tằm lưỡng hệ kén trắng, các biện pháp kỹ thuật thâm canh dâu, kỹ thuật nuôi tằm tiên tiến, ươm tơ tự động... đến giải pháp tổ chức sản xuất như: tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị dưới sự liên kết chặt chẽ giữa nông dân và tổ hợp tác/hợp tác xã, với doanh nghiệp để đảm bảo tính bền vững, gia tăng giá trị, hiệu quả trong sản xuất. Tiếp đến là các giải pháp về thị trường, về chính sách, về xây dựng cơ sở và vật chất kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững ngành sản xuất dâu tằm tơ.

Tổng kết hội thảo, ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn cho biết, Bộ NN&PTNT hiện đang triển khai Đề án Thí điểm xây dựng vùng nguyên liệu nông, lâm sản đạt chuẩn phục vụ tiêu thụ trong nước và xuất khẩu giai đoạn 2022 - 2025. Ngành dâu tằm tơ, với bề dày truyền thống, lịch sử và dư địa xuất khẩu, cũng thuộc nhóm được nghiên cứu.

Qua ý kiến của một số nghệ nhân, trong đó có bà Phan Thị Thuận ở xã Phùng Xá, huyện Mỹ Đức, Hà Nội, ông Thịnh đề nghị Hà Nội xem xét xây dựng vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất dâu tằm tơ, đồng thời tạo quỹ đất cho các làng nghề, doanh nghiệp có điều kiện phát triển bởi Hà Nội được xem là vùng đất bách nghệ và có hai làng nghề dệt nổi tiếng là Phùng Xá và Vạn Phúc.

Ông Thịnh cũng cam kết sẽ tham mưu, xin ý kiến lãnh đạo Bộ NN-PTNT về việc tạo ra giống tằm nguyên chủng trước khi giao các trung tâm nghiên cứu lai tạo giống phù hợp, tiến tới chủ động về nguồn giống. Ngoài ra, là quy hoạch vùng trồng dâu riêng biệt, không xen canh với các loại cây trồng khác; đồng thời quy hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về dâu tằm tơ.

"Chuỗi giá trị dâu tằm tơ đang cần một chính sách khuyến khích tổng thể. Đó không chỉ là đa dạng chủng loại, mẫu mã, xúc tiến, quảng bá hình ảnh, hay nhân giống tằm, phát triển diện tích trồng dâu. Cần một chương trình tổng thể mới có thể gỡ rối được cho tơ tằm", ông Thịnh khẳng định.

leftcenterrightdel
 Ông Lê Đức Thịnh, Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác và phát triển nông thôn tổng kết hội thảo

Ánh Nguyệt

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia